VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Văn xuôi
SÔNG BẠCH ĐẰNG CÒN GỌI LÀ SÔNG RỪNG (DẦNG)?
Dòng sông huyền thoại mang tên theo phiên âm Hán Việt là Bạch Đằng Giang (白藤江), tức sông Bạch Đằng.SÔNG BẠCH ĐẰNG CÒN GỌI LÀ SÔNG DẦNG, HAY RỪNG?
.
Dòng sông huyền thoại mang tên theo phiên âm Hán Việt là Bạch Đằng Giang (白藤江), tức sông Bạch Đằng và được gọi tắt trong văn nói là sông Dầng, hay sông Rừng. Cụm từ Bạch Đằng Giang (白藤江), thì chữ Bạch (白) có nghĩa là màu trắng hay màu bạc, chữ Đằng (藤) có nghĩa là “loài thực vật mọc thành bụi cây quấn quýt” và chữ giang (江) có nghĩa là sông lớn. Và cụm từ này có nghĩa nôm na là “sông có rừng sóng bạc đầu”, hay gọi theo dân gian là “sông Thần”. Ngoài ra sông này còn có tên gọi khác vào thời Lê sơ (1428 – 1527) là Vân Cừ (澐渠), nghĩa là sông “có sóng lớn”, hay “nước chảy xoáy cuồn cuộn”, từ thời nhà Mạc về sau gọi đoạn thượng lưu sông từ ngã ba thượng lưu sông Giá đến ngã ba hạ lưu sông Giá là Thành Triền (城躔), hay Thành Dền theo âm Nôm và từ thời Pháp thuộc (1890) đoạn sông này mang tên sông Đá Bạc, hay Đá Bạch… Theo thời gian biển mỗi ngày một lùi xa và tới cuối thời Lê Trịnh (1592 – 1788) thì sông Bạch Đằng đã tịnh tiến xuống hạ lưu sông Bạch Đằng cổ và xuôi xuống phía cửa biển. Theo bản đồ thời Đồng Khánh (1886 – 1888), thì sông Bạch Đằng được tính từ ngã ba sông Uông, tức từ khu vực cầu Bến Rừng thời nay hắt xuống phía hạ lưu.
Theo cách đặt tên truyền thống của cha ông ta thời phong kiến (từ thời Thành Thái trở về trước), thì thường lấy địa danh phía thượng nguồn làm tên cho sông, tức sông Bạch Đằng được tính từ giáp (xóm) chài Đằng (藤村) thuộc châu Đông Triều (东潮州) xuôi xuống tới cửa biển. Vì giáp chài Đằng này tên Nôm là Dầng hay Rừng, nên trong văn nói tắt thường được gọi là sông Dầng, hay sông Rừng, chứ không phải như các chuyên gia làm “Từ điển Bách khoa Hải Phòng” ghi ở trang 41 giải thích như sau: “Dầng” có thể có nghĩa “dâng lên”, “lên cao” và thực tế tất cả các sông ở vùng ven biển trên thế giới đều dâng lên”, “lên cao” theo thủy triều. Hay các chuyên gia khác phía Quảng Ninh giải thích bên tả ngạn sông có dải rừng già từ Yên Lập tới bên tả ngạn và trải dài theo sông, nên gọi là sông Rừng. Và thực tế không có dải rừng già nào ở khu vực bên tả ngạn, hay hữu ngạn sông Bạch Đằng cả, mà chỉ có bạt ngàn sú vẹt hay bần mà thôi.
Còn hai từ Đông Triều (东潮) có nghĩa nôm na là “thủy triều, hay vịnh ở phía Đông”, tôi có thể dẫn ra một số tài liệu để chứng minh Đông Triều là vùng đất giáp biển vào thời Nguyễn. Ví như trang 543 sách “Đại Nam nhất thống chí” xuất bản đầu thế kỷ XX ghi: “Muối: Sản xuất ở xã Nội Hoàng, tổng Nội Hoàng, huyện Đông Triều và xã Vũ Yên, tổng Hạ Đoàn, huyện An Dương, sau đó xã này thuộc tổng Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên”. Hay câu ca còn lưu giữ ở tỉnh Bắc Ninh ngày nay về nghề làm tương với công thức đỗ rang ngâm thối và cơm ủ mốc lên men là: “Chồng thối vợ thiu. Lấy muối Đông Triều. Trở thành phu phụ”.v.v.
Vì vùng đất ven biển được các lớp trầm tích phù sa bối đắp, nên xóm chài Đằng (tên Nôm là Dầng hay Rừng) cũng dịch chuyển dần xuống phía cửa biển. Vào đầu thời Lê sơ (1428 – 1527), thì ngư dân giáp Rừng này lên bờ khai hoang lập ấp, sau đó trở thành đơn vị hành chính cấp xã và mang tên An Hưng thuộc huyện An Hòa, châu An Bang. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) thì huyện lỵ An Hưng đóng tại xã An Hưng và mang tên An Hưng thuộc phủ Hải Đông, đạo An Bang. Vì tên nôm của giáp Nam xã này là Rừng, nên mới có chợ Rừng, bến đò Rừng, giếng Rừng, cầu Bến Rừng… là vậy. Không riêng gì tại khu vực này, mà ở khu vực khác thuộc đồng bằng Bắc Bộ cũng có nhiều làng khác mang tên Nôm là Rừng như làng Rừng (Gia Thượng) ở quận Long Biên, Hà Nội, hay làng Rừng ở xã Tiền Yên, huyện Hoài Đức, Hà Nội.v.v. Vì vậy khi gọi làng Rừng cần thêm địa danh tỉnh thành để độc giả không bị nhầm lẫn.
Tôi đưa ra một số dữ liệu để bạn đọc hiểu thêm về làng Rừng và huyện Yên Hưng, nay là thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, mà sách “Đồng Khánh địa dư chí” cách nay 137 năm ghi: “Huyện Yên Hưng có 2 tổng với 17 xã, thôn với 552 đinh khẩu (tương đương với hơn 2.000 nhân khẩu), lính tuyển với 36 người. Thổ trạch vườn ao với 146 mẫu, 2 sào, 4 thước, 6 tấc. Ruộng tư thực nộp với 3.675 mẫu, 3 sào, 1 tấc, 2 phân. Và có một điều đặc biệt là về danh thắng duy nhất có chùa Lôi Âm thuộc địa phận thôn Yên Cư, dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 16 (1720) từ xưa được coi là danh thắng”. Tức vào thời Đồng Khánh (1886 – 1888) toàn bộ huyện này, nay là thị xã Quảng Yên chưa có một đền thờ, miếu mạo, chùa chiền… cấp tỉnh. Hoặc toàn tỉnh Quảng Yên, nay là tỉnh Quảng Ninh chỉ có 3 đền thờ cấp tỉnh (chúng tôi chưa được xem sắc phong, nên chưa rõ có đền thờ nào cấp quốc gia) là: Đền thờ Suất Hải ở Cẩm Phả, nay thuộc Cửa Ông; Đền thờ thần Tiên Yên ở xã Tiên Yên, nay thuộc huyện Tiên Yên; Đền thờ thần Tam Trĩ ở xã Tam Trĩ, nay thuộc huyện Ba Chẽ (tên Nôm của Tam Trĩ). Còn tất cả các di tích ngày nay được xếp hạng cấp tỉnh, cấp quốc gia, hay cấp quốc gia đặc biệt đều do lãnh đạo thời nay tự đánh giá và phong tặng…
Vì lịch sử các trận chiến chống quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng gắn liền với mảnh đất và con người hai bên sông, đặc biệt là bên hữu ngạn con sông huyền thoại này, nay là “vùng đảo” của 7 xã, thị trấn miền núi phía Bắc huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Toàn bộ miền đất tính từ tả ngạn sông Giá tới hữu ngạn sông Bạch Đằng, từ năm 1890 là sông Đá Bạc ít có sự thay đổi về vị trí địa lý, vì phần lớn là đồi núi và được bao bọc bởi hai con sông cổ này. Từ thời Trùng Hưng (1285 - 1293) trở về trước, thì mảnh đất nơi đây mang tên động Trúc (竹洞) thuộc châu Đông Triều và tới nay những cái tên như xóm Tre (Trúc), chùa Đông Trúc, chùa Tây Trúc, hay chùa Trúc Lâm… vẫn còn tồn tại ở thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên này. Sách cổ “Nguyên sử” có ghi: “Nhật Huyên (tức vua Trần Nhân Tông) không chịu đầu hàng, mà lại chạy ra giữ cửa biển động Trúc”. Như vậy ta có thể hiểu cửa biển vùng đất nơi đây vào cuối thế kỷ XIII nằm ở khu vực thực địa phía Đông Nam của thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên và phía Đông Nam của thành phố Uông Bí ngày nay.
Về sau động Trúc (miền đồng bằng gọi là xã) trở thành hai tổng là động Trúc (nay gồm các xã Liên Khê, Lưu Kỳ và Lưu Kiếm) và động Dưỡng, tên Nôm là Dãng (nay gồm các xã Minh Tân, Gia Minh, Gia Đức và thị trấn Minh Đức) lấy sông Hà Thần (nay còn gọi là sông Lò Nồi, nối sông Giá với sông Đá Bạc) làm ranh giới. Vào thời Hậu Lê (1428 - 1788), lúc sử dụng địa danh bằng hai từ thì mới có tổng Trúc Động và tổng Dưỡng Động là vậy. Trong đó, một số tác giả viết sách thời nay về chiến trận Bạch Đằng đã nhầm giữa động Trúc (gồm 7 xã, thị trấn là Minh Đức, Gia Đức, Minh Tân, Gia Minh, Lưu Kiếm, Lưu Kỳ và Liên Khê) với xã (làng) Trúc Động, tổng Trúc Động (nay là thôn Trúc Động, xã Lưu Kiếm, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng). Giống như cụm từ thành phố Hải Phòng ta có thể hiểu là phần nội đô của Hải Phòng với diện tích vài cây số vuông, nhưng cũng có thể hiểu là toàn bộ thực địa 15 quận huyện của thành phố Hải Phòng với diện tích là 1.527 cây số vuông.
Còn cách nay 137 năm, trang 414 sách “Đồng Khánh địa dư chí” tỉnh Quảng Yên ghi phần sông biển như sau: “Cửa biển Bạch Đằng: Bờ Đông thuộc xã Hải Yến, tổng Hà Nam, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên. Bờ Tây thuộc xã Phục Lễ, tổng Phục Lễ, huyện Thủy Đường, tỉnh Hải Dương”, nay là khu vực cách phà Rừng chừng hơn 3 cây số về phía hạ lưu sông. Còn cửa sông Bạch Đằng thời nay được tính từ khu vực Đình Vũ – Cát Bà, tức đã lùi về phía biển khá xa và cách cửa sông Bạch Đằng thời Đồng Khánh (1886 - 1888) chừng hơn chục cây số. Trong đó trang 1047 sách “Địa chí Thủy Nguyên” Nhà Xuất bản Hải Phòng năm 2015 lại ghi về xã (làng) Phục Lễ như sau: “Là vùng đất ven sông Bạch Đằng, nơi đây từng diễn ra những trận chiến đấu của nhân dân với quân xâm lược Đông Hán do Nữ tướng Lê Chân chỉ huy trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng…” là hoàn toàn chưa có sức thuyết phục. Nếu cách nay 2.000 năm thì toàn bộ phần đồng bằng của huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng và huyện Đông Triều, thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh ngày nay vẫn còn là biển.
.
Sông Bạch Đằng khúc phà bến Rừng (ảnh tác giả chụp 10/09/2022)
.
Một góc phía Tây bản đồ tỉnh Quảng Yên năm 1909
.
Bản đồ tỉnh Quảng Yên thời Đồng Khánh (1886 - 1888)
Trong tay tôi có tấm bản đồ hành chính tỉnh Quảng Yên được người Pháp in năm 1909, thì khu vực từ cầu Đá Bạc thời nay hắt xuống phía hạ lưu sông ở cả hai bên sông thuộc huyện Yên Hưng (nay là một phần của huyện Thủy Nguyên, thành phố Uông Bí và thị xã Quảng Yên) tỉnh Quảng Yên còn là vùng ngập mặn, mênh mông nước và chằng chịt các sông ngòi kênh rạch. Từ năm 1909 trở về trước, thì địa hình của vùng đất nơi đây ít thay đổi hơn vì người dân cải tạo đất đai bằng sức người là chính. Hay nếu nhìn vào bản đồ tỉnh Quảng Yên thời Đồng Khánh (1886 – 1888), ta nhận thấy vùng đất Hải Đông tức “phía Đông của biển”, tức Quảng Ninh ngày nay hầu hết là biển đảo. Hay thủ phủ của vùng đất Yên Quảng, sau là Quảng Yên này được tính từ ranh giới huyện Đông Triều cổ với huyện Yên Hưng (nay là sông Uông) kéo dài về phía Đông tới hết núi Bạch Long Vỹ (nay là bán đảo Bạch Long thuộc Thành Phòng Cảng, Nam Ninh, Trung Quốc) được đóng tại xã Cổ Dũng (tên Nôm là Giống) thuộc tổng Lai Vu, huyện Kim Thành, nay thuộc trung tâm khu A của huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Tới năm Gia Long thứ 3 (1804) trấn lỵ Yên Quảng mới di dời từ huyện Kim Thành về gò núi xã Quỳnh Lâu, huyện Yên Hưng, trấn Yên Quảng (nay thuộc phường Quảng Yên, thị xã Quảng Yên).
Tất cả các nơi có đồi núi ở vùng đất này thì không thay đổi mấy, còn phần đồng bằng tại huyện Thủy Nguyên, huyện Đông Triều, hay huyện Yên Hưng về sau được bồi đắp bởi các trầm tích phù sa. Thế nên những nhà viết sử thời nay khẳng định địa điểm các trận chiến trên sông Bạch Đằng từ khu vực phà Rừng hắt xuống hạ lưu là hoàn toàn chưa có cơ sở. Hoặc tất cả các bãi cọc gỗ đều được cắm tại lòng sông Bạch Đằng và sau mỗi một chiến thắng, ông cha ta đã nhổ hết cho thuyền bè đi lại. Còn theo các tư liệu cổ sử, thì các trận chiến đều diễn ra ở cửa Bạch Đằng, nên ta có thể hiểu là các sông nhỏ đổ ra sông chính Bạch Đằng được gọi là cửa Bạch Đằng, còn dòng chảy từ sông Bạch Đằng đổ ra cửa biển được gọi là cửa biển Bạch Đằng. Vì vậy 3 trận chiến lớn do Ngô Quyền, Lê Đại Hành và Trần Hưng Đạo chỉ huy diễn ra đều nằm từ khu vực giang phận xã Tràng Kênh (Thủy Nguyên, Hải Phòng) hắt lên phía thượng lưu. Đặc biệt trận chiến thắng chính năm 1288 diễn ra trên sông Bạch Đằng tại khu vực trước đền Hoàng Tôn, hay phía Đông ngọn núi Hoàng Tôn ngày nay.
Từ đầu thế kỷ XX, người Pháp đã cắt tổng Dưỡng Động và Trúc Động, huyện Thủy Nguyên về huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên và tới thời cách mạng (sau 1945) 2 tổng này mới được cắt trả lại cho huyện Thủy Nguyên. Vì vậy phà Rừng do tỉnh Quảng Ninh quản lý là vậy. Bên tả ngạn sông là bến Rừng thuộc xã Yên Hưng, tổng Hà Bắc, nay thuộc phường Yên Giang, thị xã Quảng Yên, còn bên hữu ngạn sông là bến Đoan thuộc xã Đoan Lễ, tổng Phục Lễ, nay thuộc xã Tam Hưng, huyện Thủy Nguyên. Nơi đây còn là một trong những bến đò dọc chính thời phong kiến đi trấn lỵ Hải Dương hay ngược lại. Vị trí bến đò Rừng - Đoan cũ có lệch với bến phà Rừng - Đoan thời nay một đoạn, vì khi làm quốc lộ Mười, các nhà thiết kế đã nắn chỉnh quốc lộ này với phương án tối ưu nhất.
NGỌC TÔ
Các tin khác
-
ĐẤT CẢNG HẢI PHÒNG
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
TẠI SAO LÀNG CAN TRÌ LẠI ĐỔI THÀNH HU TRÌ?
-
ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?
-
"DỌN VƯỜN II" VỀ VIỆC TÊN PHƯỜNG, XÃ THEO SỐ THỨ TỰ VÀ ĐÁNH SỐ NHÀ
-
SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
CHÙA VẼ HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
“DỌN VƯỜN” TÊN CÁC DI TÍCH
-
SÔNG PHÚ NÔNG Ở PHÍA ĐÔNG ĐỀN HÙNG