/Cỏn con một sợi lông mày. Mà đem cột trái đất này vào anh/ Thơ Trần Mạnh Hảo

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Văn xuôi

ẤP AN BIÊN NÀO Ở HẢI PHÒNG CÓ TRƯỚC?

Tới thời điểm hiện tại, chúng tôi chưa tìm thấy một sử sách chính thống nào thời phong kiến Việt Nam viết về Nữ Thánh Lê Chân...

(Tiếp theo kỳ trước)

ẤP AN BIÊN NÀO Ở HẢI PHÒNG CÓ TRƯỚC?

.

       Tới thời điểm hiện tại, chúng tôi chưa tìm thấy một sử sách chính thống nào thời phong kiến Việt Nam viết về Nữ Thánh Lê Chân. Để có được bất kỳ một tư liệu gì về vị Nữ Thánh này, buộc chúng tôi phải tìm tới các địa danh có liên quan dính líu. Theo tục truyền, thì quê của vị Nữ Thánh này ở ấp An Biên, huyện Khúc Dương, quận Giao Chỉ, đến thời nhà Nguyễn là ấp Yên Biên, tổng Vĩnh Đại, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Đến mãi đầu thế kỷ XX, dân số địa phương này quá ít, nên thôn Yên Biên phải sát nhập vào thôn Vị Thủy để trở thành đơn vị hành chính cấp xã (làng) thuộc tổng Đạm Thủy, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Và vào thời điểm hiện tại thì dân số cả xã Thủy An, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh mới có 3.744 nhân khẩu. Rồi từ năm 1961 thì huyện Đông Triều gia nhập “ngôi nhà chung” Quảng Ninh, nên An Biên là đơn vị hành chính cấp thôn thuộc xã Thủy An, huyện (thị xã) Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

       Hai từ An (Yên) Biên () nghĩa là “vùng ven yên bình”. Còn từ Biên () nghĩa là bờ, rịa, mép, viền, cạnh, ven,… nên tên Nôm là Vẻn, vì thế gọi làng theo từ Hán Việt là An (Yên) Biên hay gọi làng theo tên Nôm là  Vẻn đều được.

       Còn theo bản đồ hành chính phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương thời Nguyễn, thì sông bên phía Nam thực địa ấp An Biên là sông Kinh Sài (sau là Kinh Thầy). Còn sông Đạm Thủy bắt nguồn từ núi Đạm Thủy chảy theo hướng Nam ra tới sông Kinh Sài (Kinh Thầy). Theo một tục truyền khác thì địa danh An Biên bên triền Tả sông Tranh (từ cuối thế kỷ XIX là sông Hóa), huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng và địa danh An Biên bên triền Hữu sông Tam Bạc, nội đô Hải Phòng đều do Nữ Thánh Lê Chân đặt tên cho.

       Vì thời gian lùi xa quá lâu, nên lịch sử hành chính của các địa phương của nước ta có nhiều thay đổi. Theo các sách Dư địa chí cổ, chúng tôi tìm được 5 xã (làng) mang tên An Biên của quốc gia Đại Việt. Riêng tại thành phố Hải Phòng vinh dự có hai, đó là xã An Biên, tổng Kê Sơn, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Hưng Nhân, huyện Vĩnh Bảo), nằm bên triền Tả sông Tranh (Hóa) và xã An Biên, tổng Đông Khê, huyện An Dương, phủ Kinh Môn cùng trấn Hải Dương, nằm ở bên triền Hữu sông Tam Bạc (nay thuộc một phần địa giới quận Hồng Bàng và quận Lê Chân).

       Theo bản đồ phụ cận cảng Hải Phòng năm 1880 do Pháp in mà chúng tôi có được, thì An Biên thời đó là đơn vị hành chính cấp ấp (Hamenau Bian - ấp Vẻn), phần lớn diện tích của ấp là ruộng lúa nước. Thực địa của ấp này không lớn như một số sách đã xuất bản tại Hải Phòng ghi. Phía Tây là làng An Dương, phía Bắc bên triền Tả sông Tam Bạc là ấp Hạ Lý, phần lớn ấp này là ruộng lúa nước, vườn tre và ao hồ, sình lầy. Địa giới của ấp An Biên giáp sông Tam Bạc là đoạn từ khu vực chợ Sắt đến phố Trần Quang Khải bây giờ, còn đình và chùa của ấp Vẻn nằm ở khu vực Nhà hát Lớn thành phố ngày nay.

       Ngoài ra, chúng tôi tìm được làng An Biên Thượng, tổng An Biên Thượng, châu Định Hóa, phủ Phú Bình, xứ Thái Nguyên, nay thuộc huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và thôn An Biên, tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa, nay thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Tất cả các làng mang tên An Biên trên có trong danh sách dư địa chí cổ mới có khoảng vài trăm năm nay. Lúc xem xét về lịch sử hành chính và Thần tích – Thần sắc của làng An Biên tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và làng An Biên tại huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, chúng tôi thấy không có liên quan gì tới Nữ Thánh Lê Chân.

       Còn làng An Biên tại xã Hưng Nhân, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng thì “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” trang 14 ghi: “Vào thế kỷ XV – XVIII một nhóm chi họ Nguyễn ở làng An Biên nội thành Hải Phòng đã di cư tới vùng đất này (nay là xã Hưng Nhân, huyện Vĩnh Bảo) lập làng An Biên, lấy tên Nôm là Cấm, Vẻn”. Theo cách đặt tên của người xưa thì tất cả các làng Vẻn đều ở cạnh sông hồ, hay cửa biển và đều nằm ở những vị trí trũng, thấp. Còn từ Cấm là tên Hán, bắt nguồn từ giáp (xóm) chính mang tên Cấm thuộc xã Da Viên, tổng Da Viên, huyện An Dương (nay thuộc phường Minh Khai, quận Hồng Bàng) chứ không phải là tên Nôm, nên hai từ Cấm và Vẻn không có liên quan gì với nhau.  

       Theo “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” trang 14 ghi: Thành hoàng làng An Biên, tổng Kê Sơn, huyện Vĩnh Lại thì “Lý Quốc Sư Viên Quang Phổ Độ Đại Vương, sinh ngày 11 tháng 3, hóa ngày 4 tháng 2, được vua Lý Thần Tông (1116 – 1138) sai đi xem cát địa, đến trang An Biên, chiêu dân cho lập đền thờ”. Còn theo Thần tích và lịch sử hành chính làng An Biên, tổng Kê Sơn bên triền Tả sông Tranh (Hóa), thì đất làng này có người tới ở từ cuối thời nhà Lý (1010 – 1225) đến đầu thời nhà Trần (1225 – 1400). Còn bên triền Hữu sông Tranh (Hóa) là tổng Địa Linh, huyện Phụ Dực, phân phủ Thái Bình. Tại địa phương này vẫn còn lưu giữ được bia đá ghi danh sách một số nhà khoa bảng từ khoa thi Thái học sinh cuối thời Trần và thời Hồ. Điều này chứng tỏ rằng, cộng đồng dân cư ở hai bên triền sông Tranh (Hóa) tại đây đã xuất hiện từ khá lâu.

       Tương truyền, cách nay chừng 800 năm có một nhóm ngư dân từ trang An Biên, huyện Đông Triều, châu Đông Triều về khu vực cửa biển huyện Đồng Lợi, lộ Hồng (nay là khu vực xã Hưng Nhân, Vĩnh Bảo) làm nghề đánh cá. Sau đó biển mỗi ngày một lùi xa và việc đánh bắt thủy hải sản ngày một khó khăn, buộc họ phải lên bờ khai hoang lập ấp. Cư dân nơi đây không quên nơi chôn nhau cắt rốn của mình và lấy tên An Biên đặt cho ấp mới của mình.

       Rồi theo một tương truyền khác nữa, thì vào thời Lê Mạc (đầu thế kỷ XVI), một nhóm ngư dân làng An Biên, tổng Nội Hoàng, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương di cư về vùng cửa biển huyện An Dương cùng phủ Kinh Môn làm nghề chài lưới để sinh nhai. Sau đó biển mỗi ngày một lùi xa và việc đánh bắt thủy hải sản ngày một khó khăn, buộc họ phải lên bờ tại khu vực bên triền Hữu sông Tam Bạc khai hoang lập ấp. Theo bản đồ hành chính nội đô Hải Phòng do Pháp in năm 1924 thì làng An Biên còn có một khu đất bên trái phố Belgique (nay là phố Lê Lợi), tức khu đất từ khu vực chùa Phổ Minh tới ngã 4 Lạch Tray, nay thuộc phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền.

       Người dân nơi đây không quên chốn cũ của mình và đã lấy tên An Biên đặt cho ấp mới, mà trước đó là nhóm ngư dân từ ấp Đông Khê cùng huyện Đông Triều đã di cư tới mảnh đất ven biển huyện Cổ Phí này (từ năm 1469 là huyện An Dương) khai hoang lập ấp vào thời Lê sơ (1428 – 1527). Khi thành lập ấp, họ cũng không quên quê cũ của mình và cái tên Đông Khê được đặt cho ấp mới của mình. Theo bản đồ hành chính nội đô Hải Phòng do Pháp in năm 1924 thì làng Đông Khê còn có một khu đất (cánh đồng) ở bên phải phố Fort Annamite, tức đoạn cuối phố Lê Lai ngày nay, nhìn từ ngã tư Lê Thánh Tông xuống.

       Còn một tục truyền nữa, là vào thời Lê – Mạc (đầu thế kỷ XVI) một nhóm ngư dân làng An Biên, tổng Kê Sơn, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương đã di cư tới vùng đất hạ lưu triền Hữu sông Tam Bạc, huyện An Dương và lập ra ấp An Biên, tổng Đông Khê, huyện An Dương, phủ Kinh Môn cùng trấn Hải Dương?

       Thấy mảnh đất ven sông Tam Bạc này trù phú dễ sinh sống, cư dân từ nhiều nơi khác đổ về và dần dần ấp An Biên, rồi đến thời Nguyễn thì An Biên mới đủ cơ số dân và trở thành đơn vị hành chính cấp xã (làng). Lúc này An Biên là một trong 5 xã (An Biên, Đông Khê, Hàng Kinh, Dư Hàng và Phụng Pháp) thuộc tổng Đông Khê, huyện An Dương.

          Sau khi nội đô thành phố Hải Phòng được thành lập (19/07/1888), vì còn quá nhiều thùng vũng ao hồ, sình lầy, nên chính quyền thực dân Pháp đã tiến hành đào mới nhiều sông ngòi, kênh rạch như: Sông Đào Hạ Lý (đoạn nối từ sông Tam Bạc ra sông Cấm), kênh vành đai (Canal de ceinture) hay gọi theo tên khác là kênh Bonnal (sau là sông Lấp), kênh Lạch Tray (đoạn nối từ sông Lạch Tray với sông Tam Bạc) và chỉnh trang, đào mới lại sông Tam Bạc, sông Cấm. Ngoài việc tạo ra cảnh quan môi trường cho thành phố, phát triển giao thông đường thủy, cũng như xây dựng thương cảng và bảo vệ cho khu phố Tây… thì một việc quan trọng khác là lấy đất để bồi đắp những thùng vũng, sình lầy, hồ ao… xây dựng nội đô Hải Phòng.

       Còn bên triền Tả sông Tam Bạc là làng Hạ Lý, tổng Da Viên (nay là phường Hạ Lý, phường Thượng Lý và phường Trại Chuối) có lịch sử hành chính tương đương với làng An Biên, tổng Đông Khê. Giáp (xóm) chính của làng Hạ Lý là khu vực phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng ngày nay. Đình làng Hạ Lý là đền Hạ, phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng bây giờ. Đến thời nhà Nguyễn (1802 – 1945) thì mới xuất hiện cái tên Hạ Lý. Danh từ Lý () chỉ xóm, làng ngày xưa gồm 25 hộ gia đình. Còn từ Hạ () là chỉ phần dưới, chỗ thấp, nên gọi Hạ Lý là đủ nghĩa. Sau này phong trào gọi tên địa danh bằng hai chữ, nên mới gọi làng Hạ Lý là vậy. Tại đình Hạ Lý thờ Thành hoàng làng là Hiệp trấn Hải Dương thời nhà Nguyễn, Thọ Như hầu Nguyễn Trí Hòa, quê xã Phúc Thọ, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, trấn Thanh Hóa Nội. Người có công lớn trong việc đào sông, đắp đê lấn biển, ngăn lũ, ngăn mặn, mở mang diện tích cho huyện Kim Thành và huyện An Dương. Ngoài ra Thọ Như hầu Nguyễn Trí Hòa còn được vinh danh là Thành hoàng làng và được tôn thờ tại xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa ngày nay.  

      Bản đồ phụ cận cảng Hải Phòng năm 1882 do Pháp in

        Hay trong tay chúng tôi có bản đồ hành chính nội đô Hải Phòng do Pháp in vào năm 1898 thì “đảo Hạ Lý”, tức phường Hạ Lý ngày nay, phần lớn vẫn còn là hồ nước mênh mông. Đến bản đồ hành chính nội đô Hải Phòng do Pháp in năm 1920, thì “đảo Hạ Lý” có tới một phần ba diện tích là hồ nước sâu 2.5 mét, nối từ sông Tam Bạc ra sông Cấm. Hay khu vực phường Trại Chuối ngày nay mới hình thành cộng đồng dân cư từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng Sài Gòn (1975)…

       Theo thống kê của Bộ Giao thông Vận tải nước ta, mỗi năm cảng Hải Phòng (vùng hạ lưu sông Cấm) phải đón nhận từ một triệu rưỡi đến ba triệu mét khối trầm tích phù sa lấp đầy, nên biển dần lùi xa. Và, theo các sách sử cổ, thời Ngô Quyền và Trần Quốc Tuấn đánh quân Nguyên Mông thì sông Bạch Đằng còn ở khu vực sông Đá Bạc ngày nay. Hay theo “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” thì Tuần Kiểm ty Liễu (Da) Viên, huyện Giáp Sơn do nhà Minh đặt vào tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 8 (1410) tại khu Vật Cách Thượng ngày nay. Ta có thể hiểu cách nay hơn 600 năm thì cửa sông Kiền Bái ở khu vực Vật Cách Thượng, xã Nam Sơn, huyện An Dương bây giờ.

       Theo bản đồ phụ cận cảng Hải Phòng năm 1880 và Thần tích của xã An Biên, tổng Đông Khê, huyện An Dương, thì chùa làng An Biên được xây dựng tại xứ Đồng Mạ, nay là khu vực nhà hát Lớn thành phố ngày nay. Trước cửa chùa có “Thiên đài trụ” (Mã hiệu số 1169 đăng ký tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm) hay “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” trang 15 có ghi: “Chùa An Biên (còn gọi là chùa Vẻn, tên chữ là Linh Quang tự) thuộc địa phận làng An Biên xưa. Theo Thiên đài trụ, chùa Linh Quang được xây dựng năm Chính Hòa thứ 16 (1695) đời vua Lê Hy Tông. Chùa Linh Quang, xã An Biên, huyện An Dương ở vị trí rất đẹp. Trước chùa là biển, ngày ngày nước triều lên xuống. Cảnh trí thật nên thơ”.

       Còn đình An Biên được xây dựng tại phía Tây của chùa (khu vực góc phố Phan Bội Châu và phố Hoàng Văn Thụ ngày nay) vào thời gian muộn hơn. Và, miếu ấp An Biên lúc đầu ở cánh đồng Soi của làng, đến năm Cảnh Thịnh thứ 6 (1798) đời vua Nguyễn Quang Toản chuyển về xứ Đồng Mạ, được ghi ở Thiên đài trụ để ngoài trời tại đền thờ Nữ Thánh Lê Chân. Sau đó miếu được trùng tu, xây dựng thêm và được ghi ở các Bia đá công đức cùng Bia đá Thần tích của miếu vào các năm: Minh Mạng thứ 10 (1829), Tự Đức nguyên niên (1848), Tự Đức thứ 19 (1866) và Khải Định thứ 9 (1924).

       Đến thời kỳ Hải Phòng bắt đầu quy hoạch xây dựng khu trung tâm thành phố vào đầu thế kỷ XX, thì chùa Vẻn được di dời về khu vực Trại Cau, nay thuộc số 244 phố Tô Hiệu, phường Trại Cau, quận Lê Chân, Hải Phòng. Chùa được trùng tu lớn vào năm Bảo Đại thứ 9 (1934) theo Bia đá công đức đặt ở sau chùa chính.

        Còn đình An Biên được di dời về ngõ 170 phố Hai Bà Trưng, phường An Biên, quận Lê Chân ngày nay và tới năm Bảo Đại thứ 4 (1929) thì đình cũng được trùng tu. Trải qua thời gian gần 100 năm, tới năm 2021 đình An Biên mới được trùng tu lớn, nhưng vẫn giữ nguyên hình dáng, lối kiến trúc xưa. Đình An Biên, phường An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã được xếp hạng Di tích cấp quốc gia năm 2009...

       Qua những dữ liệu trên ta thấy cách nay 326 năm (1695) thì trước cửa chùa ấp An Biên, tổng Đông Khê, huyện An Dương còn là biển cả. Trong khi đó làng An Biên, tổng Kê Sơn, huyện Vĩnh Lại (nay thuộc xã Hưng Nhân, huyện Vĩnh Bảo) vào cuối thế kỷ XVII thì biển đã lùi xa tới gần ngã 3 sông Tô (Hóa), khu vực tổng Ngải Am, huyện Vĩnh Lại cách địa phận làng An Biên, tổng Kê Sơn hơn chục cây số. Như vậy ta có thể khảng định làng An Biên ở huyện Vĩnh Bảo có sớm hơn ấp An Biên nội thành Hải Phòng khoảng ba thế kỷ. Khi viết về hai địa danh An Biên cùng thành phố Hải Phòng, cảm xúc trong tôi dâng trào và mấy vần lục bát ra đời:

Nếu không ngẫm trước ngó sau

Một lời phán xét làm đau cả làng

Lê – Mạc: Cô Vẻn* vênh vang

Lý - Trần: Cụ Cố** xuống hàng cháu con

Ngước nhìn về phía hoàng hôn

Hồn thương nhoi nhói nỗi buồn miên man?

__________

* Ấp An Biên nội thành có từ đầu thế kỷ XVI

** Làng An Biên Vĩnh Bảo có từ đầu thế kỷ XIII

                                            NGỌC TÔ