/Cỏn con một sợi lông mày. Mà đem cột trái đất này vào anh/ Thơ Trần Mạnh Hảo

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Văn xuôi

 MỘT SỐ “HẠT SẠN” TRONG CÁC TÊN DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA

Đây là phiên âm chữ Hán, còn tiếng Việt phải là “Hoàng hậu Nam Phương” hay “Hoàng đế Gia Long”…

 MỘT SỐ “HẠT SẠN” TRONG CÁC TÊN DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA

.

       Một số di tích lịch sử văn hóa, được Nhà nước công nhận với “Di tích cấp tỉnh, thành phố”, hay “Di tích Quốc gia”, hay “Di tích Quốc gia đặc biệt” do các Giáo sư, Tiến sỹ, các Nhà Văn hóa hàng đầu của ngành Văn hóa Việt Nam xét duyệt qua nhiều cấp, mà vẫn còn những cái tên “ngây ngô nửa ta nửa Tàu” thế mới lạ.

       Chúng tôi tìm ở “Danh mục Di tích Quốc gia đặc biệt” thấy số thứ tự 64 ghi “Di tích khảo cổ Mộ Cự Thạch Hàng Gòn” ở tỉnh Đồng Nai. Nếu những người biết về Hán Nôm thì chẳng nói làm gì, mặc dù tên di tích trên viết sai cả về ngữ pháp. Cụm từ trên nếu ghi theo phiên âm chữ Hán phải là “Cự thạch Hàng Gòn mộ”, còn tiếng Việt phải ghi là “Mộ đá lớn Hàng Gòn”. Nếu mang câu “Mộ Cự Thạch Hàng Gòn” này ra đố các Nhà văn, hay các Nhà Ngôn ngữ, hay Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch chưa biết Hán Nôm, thì cũng “bó tay.com”, chứ đừng nói gì đến thường dân.

       Hay trong “Danh mục Di tích Quốc gia” chúng tôi thấy ở thành phố Đà Nẵng có di tích “Hải Vân quan”, đây là phiên âm chữ Hán, chứ không phải tiếng Việt, hay gọi theo kiểu Trung Quốc giống như “Hữu nghị quan”.v.v. Nếu là tiếng Việt phải ghi “Cửa ải Hải Vân”… Hay tại thành phố Hải Phòng có khá nhiều di tích lịch sử văn hóa, nhưng cũng có một số tên di tích khá “ngây ngô” như: “Từ Lương Xâm”. Nếu là phiên âm chữ Hán phải ghi là “Lương Xâm từ”, còn tiếng Việt phải là “Miếu (hay đền) Lương Xâm”. Hay “đền Nghè”, đây là miếu (hay đền, hay nghè) thờ Nữ Thánh Lê Chân tại phường An Biên, quận Lê Chân, mặc dù vị Thánh này không phải là Tiến sỹ Nho học.

      Hay tại cổng chính của đền Nghĩa Xá ghi “Từ chính Nghĩa Xá”, nếu là phiên âm chữ Hán phải ghi là “Nghĩa Xá chính từ (hay điện)”, còn tiếng Việt phải ghi là “Đền (hoặc miếu) chính Nghĩa Xá”

      Đặc biệt là “Khu di tích sông Bạch Đằng” nằm tại khu vực Tràng Kênh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Mảnh đất làng Tràng Kênh từ thời Trần Nhân Tông tới thời Nguyễn là khu di tích (đền thờ) các Vương tôn Công tử là cháu nội của vua Trần Thái Tông, tức các hậu duệ ngang hàng với Trần Nhân Tông đã được vua Trần Nhân Tông phong tặng là “Thượng Đẳng thần từ”, tương tự như “Di tích cấp quốc gia đặc biệt” ngày nay.

       Rồi vào năm Vĩnh Tộ thứ 8 (1626) đời vua Lê Thần Tông, thì Thanh Đô vương (Trịnh Tráng) đã ra Lệnh chỉ phong tặng cho khu di tích “Thượng Đẳng thần từ” này được sử dụng 18 đinh khẩu (lao động nam từ 18 đến 60) để trông coi thờ phụng, mà không phải nộp sưu thuế, phu phen. Với một khu di tích mà sử dụng tới 18 xuất đinh trông coi, thờ phụng… ta có thể hiểu đây là khu di tích khá lớn. Đến thời nhà Nguyễn thì sách“Đồng Khánh địa dư chí” (1886 – 1888) lại ghi:

       Nguyên văn Hán Việt (Vũ Hoàng):
       陳皇孫祠
       長溼涇社奉祀, 陳英尊子,字國寶討范伯齡賊于白藤江.大勝,還至伊社卒. 葬于伊社山麓, 土人于山上立祀, 之 名其山曰皇孫山.

       Phiên âm Hán Việt (Vũ Hoàng):
       Trần Hoàng Tôn từ
       Tràng Kinh xã phụng tự. Trần Anh Tôn(1) tử, tự Quốc Bảo. Thảo Phạm Bá Linh tặc vu Bạch Đằng giang. Đại thắng, hoàn chí y xã tốt táng vu y xã sơn lộc. Thổ nhân vu sơn thượng lập tự, chi danh kỳ sơn viết: Hoàng Tôn sơn.
       Dịch nghĩa (Vũ Hoàng):
       Đền thờ Hoàng Tôn nhà Trần
       Ở xã Tràng Kinh thờ phụng con trai của vua Trần Anh Tông, tên chữ là Quốc Bảo, chỉ huy đánh quân Nguyên là Phạm Bá Linh tại sông Bạch Đằng, giành thắng lớn. Sau đó về đến xã Tràng Kinh thì mất. Dân làng mai táng ngài ở chân núi, lập đền thờ bên núi và đặt tên là cụm núi Hoàng Tôn.

__________

(1):   Phần chữ Hán, tên vua là Trần Anh Tông (陳英) thì người làm sách “Đồng Khánh địa dư chí” đã ghi nhầm là Trần Anh Tôn (陳英尊). Trong đó chữ Tông (), nghĩa là dòng họ, còn chữ Tôn () nghĩa là tôn kính?

       Không biết vì lý do gì những người viết sách trên đã nhầm các cháu nội vua Trần Thái Tông, thành cháu nội vua Trần Nhân Tông. Trong đó con trai vua Trần Nhân Tông là Trần Anh Tông tới lúc kết thúc chiến tranh (04/1288) mới có 11 năm 6 tháng tuổi, thì cháu trai vua Trần Nhân Tông sao lại tham gia chiến trận được. Đặc biệt từ đền thờ Trần Hoàng Tôn (các cháu vua Trần) lại thành đền thờ cá nhân Tướng quân Trần Quốc Bảo? Rồi những người làm sử ngày nay cũng tiếp tục mắc sai lầm như những người viết sách thời Đồng Khánh.

       Thời gian gần đây thành phố Hải Phòng và Công ty Xi Măng Hải Phòng đã đầu tư 20 héc-ta đất đai và hàng trăm tỷ đồng để xây dựng khu di tích thật hoành tráng bên hữu ngạn sông Bạch Đằng cổ (nay là Đá Bạc) và hữu ngạn sông Thải thuộc thị trấn Minh Đức -  Thủy Nguyên, nhưng với tên gọi “Khu di tích Bạch Đằng Giang” thì chưa ổn chút nào. Nếu viết theo phiên âm chữ Hán phải ghi là “Bạch Đằng Giang di tích khu”, còn tiếng Việt phải ghi là “Khu di tích sông Bạch Đằng”. Cũng chính từ cái tên “Khu di tích Bạch Đằng giang” này, mà không ít các nhà viết sách ngày nay lại ghi sông Bạch Đằng Giang…

       Lúc tản bộ vào trong khuôn viên khu di tích này chúng tôi thấy nhiều bia đá ghi: “Cây đa cổ thụ…” hay “Cây bồ đề cổ thụ…” do các quan chức thời nay “trồng”. Thực tế trong Từ điển tiếng Việt không có cụm từ “Cây cổ thụ” vì thụ là cây rồi, nên ghi “Đa cổ thụ…”, hay “Bồ đề cổ thụ…” là đủ. Cũng tại nơi đây, có ngôi chùa được xây dựng cùng thời gian với các đền miếu khác phía bên trái trên núi, ngoài đường có tấm bia đá chỉ dẫn ghi: “Trúc Lâm tự…”, đây là phiên âm chữ Hán, còn tiếng Việt phải ghi “Chùa Trúc Lâm…”.  

Di tích lịch sử quốc gia

Tên gọi phản cảm nói ra ngại ngùng

Chữ nghĩa di tích đang dùng

Lẫn bao “hạt sạn” nhói lòng thần dân?

       Lúc tới khu vực Quảng trường Bạch Đằng ở khu tích này, tôi thấy tấm bia khủng làm bằng đá quý có ghi phiên âm chữ Hán và thơ dịch bài “Cửa biển Bạch Đằng” của Thi nhân Nguyễn Trãi:

Phiên âm:

Bạch Đằng hải khẩu

.

Sóc phong xung(1) hải khí lăng lăng,

Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.

Ngạc đoạn kình khoa(1) sơn khúc khúc,

Qua trầm kích triết ngạn tằng tằng.

Quan hà bách nhị do thiên thiết,

Hào kiệt công danh thử địa tằng.

Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,

Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.

__________

(1): Tại tấm bia lớn bằng đá quý mới dựng này và một số sách (kể cả sách ngữ văn phổ thông) ghi phiên âm sai 2 từ: Chữ “xuy hay xúy” () nghĩa là thổi, lại ghi là “xung” và chữ “khô” () nghĩa là cắt ra, lại ghi là “khoa”?     

      Ngoài ra trong các sách sử, nhiều Giáo sư Tiến sỹ sử học, nhiều nhà nghiên cứu về lịch sử văn hóa có đai đẳng quốc gia cũng ghi chưa đúng tên các đơn vị hành chính, tên chức danh... như: Hồng Lộ, Phong Châu, Khâm Châu, Hồng Châu, Giá Giang, Cấm Giang, Châu Giang, Ngọc Hân công chúa, Lại bộ Thượng thư… đây là phiên âm chữ Hán. Còn tiếng Việt phải ghi là: Lộ Hồng, châu Phong, châu Khâm, châu Hồng, sông Giá, sông Cấm, sông Châu, Công chúa Ngọc Hân, Thượng thư bộ Lại…

      Hay một số chuyên gia kỳ cựu về ngôn ngữ ở Đài Truyền hình Việt Nam, khi giới thiệu về các di sản văn hóa cố đô Huế nói: “Nam Phương hoàng hậu” hay “Gia Long hoàng đế”… đây là phiên âm chữ Hán. Còn tiếng Việt phải nói là “Hoàng hậu Nam Phương” hay “Hoàng đế Gia Long”.v.v.

       Đặc biệt thời nay, có khá nhiều đền chùa, miếu mạo, nhà lưu niệm… thờ phụng các Thành hoàng làng, hay Thổ công, Thần tài, hay những Tiên hiền, Liệt sỹ… của địa phương, nhưng địa phương đều dành ra một gian phụ thờ Hồ Chủ Tịch, hay các “cố quan chức” thời cách mạng. Việc xây dựng như vậy thiếu tính thẩm mỹ, coi thường người đứng đầu Nhà nước, hay các nhân vật lịch sử thời phong kiến và gây phản cảm cho người tới thăm viếng. Hay việc trồng cây lưu niệm của các “quan chức trung cao cấp” ngày nay ở nhiều khu di tích, phần lớn đều có tác dụng ngược. Bởi các cổ thụ với các tấm bia đá quý khủng, mà “quan chức” bỏ tiền túi ra mua về hiến tặng thì không có vấn đề gì, đằng này họ thích đánh bóng tên tuổi bằng “tiền chùa”. Có thể người trần mắt thịt không phát hiện ra, nhưng không thể che mắt được Thánh thần, chả thế mà rất nhiều “quan chức” vừa mới trồng cây xong đã về với Cửu tuyền hay bị bay chức.   

                                        NGỌC TÔ

Một số hình ảnh tên di tích lịch sử văn hóa còn "sạn":

.

Mộ đá lớn Hàng Gòn

.

Cổng chào từ đường 10 vào khu di tích

.

Ngọc Tô (trái) và Vũ Hoàng trước cửa Khu di tích Trần Hoàng Tôn - Thủy Nguyên HP

.