VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Văn xuôi
CÁC BẾN ĐÒ NGANG - DỌC HUYỆN AN DƯƠNG CỔ
Lực Nông độ (力農渡), tức bến đò Lực Nông (thời nay là Trại Kênh), bên hữu ngạn sông Kinh Môn (thời nay là sông Vận) là bến làng Lực Nông...CÁC BẾN ĐÒ NGANG - DỌC HUYỆN AN DƯƠNG CỔ
.
Nếu ta trên một chiếc tàu thủy du lịch đi từ phía Đông của huyện An Dương cổ (gồm quận Hải An, quận Lê Chân, quận Ngô Quyền, quận Hồng Bàng và huyện An Dương thời nay), nay thuộc quận Hải An, rồi theo chiều kim đồng hồ ta gặp bến đò đầu tiên của miền đất này là:
1- Đồng Xá độ, tức bến đò Đồng Xá, gọi tắt là đò Đồng. Bên tả ngạn
sát sông Nại (từ 1890 là Lạch Tray) là xã Đồng Xá thuộc tổng Trực Cát (tổng này gồm 5 làng là Trực Cát, Đồng Xá, Hào Khê, Cát Khê và Cát Bi), nay thuộc phường Tràng Cát (sau sân bay Cát Bi), quận Hải An. Từ chiến tranh thế giới lần II (1939 – 1945) người Pháp xây dựng sân bay Cát Bi, thì thôn dân làng này phiêu tán đi nhiều nơi khác. Còn bên hữu ngạn sông là thực địa tổng Tiểu Trà, huyện Nghi Dương, nay thuộc phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
2- Lực Hành độ, tức bến đò Lực Hành, tên Nôm của làng này là Rào, nên gọi là Rào độ, tức bến đò Rào. Bên tả ngạn sông Nại (từ 1890 là Lạch Tray) là thực địa của làng Lực Hành, tổng Trung Hành (gồm 6 làng là Trung Hành, Đông An, An Khê, Thư Trung, Lực Hành và Điều Sơn), huyện An Dương. Lực Hành và Trung Hành thời Lê sơ là một làng, bởi vậy Bia đá Tiến sỹ số 4 ở Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội ghi: “Nguyễn Doãn Truân, sinh năm 1439, người xã Trung Lực Hành”. Sau này giáp Lực Hành và Trung Hành có đủ dân số và trở thành hai đơn vị hành chính cấp xã (làng). Ngoài ra theo bản đồ huyện An Dương thời Đồng Khánh (1866), thì làng này là huyện lỵ An Dương, nên huyện này có tên khác là huyện Rào, hay cửa sông Nại được gọi là cửa Rào, mà một số sách thời Nguyễn được người dịch ra quốc ngữ là cửa Dao.
Trong đó trang 22 “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” lại ghi: “Xã An Khê, tổng Trung Hành từng là huyện lỵ của huyện An Dương. Năm 1887, huyện lỵ di dời về xã Hàng Kênh, nay thuộc địa bàn phường Hàng Kênh, quận Lê Chân”. Cũng theo sách này, trang 189 lại ghi: “Có thời kỳ huyện lỵ huyện Hải An, lỵ sở đóng ở đường Nguyễn Công Trứ ngày nay”. Câu viết này hơi bị thừa từ, nhưng nó thể hiện huyện lỵ Hải An (sau 1924) từng đóng ở đây, chứ không phải huyện An Dương. Còn theo sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn, thì huyện lỵ An Dương sau đóng ở làng Trí Yếu, tổng Kiều Yêu, nay thuộc khu vực huyện lỵ An Dương. Như vậy huyện lỵ An Dương sau thời Đồng Khánh được chuyển về Trí Yếu như ngày nay.
Theo bản đồ hành chính tỉnh Hải Phòng năm 1890 do người Pháp xuất bản, thì từ tỉnh lỵ Hải Phòng (khu vực Ủy ban Nhân dân thành phố ngày nay) tới thực địa làng Lực Hành (nay thuộc khu vực gần bến xe cầu Rào) và qua đò Rào sang bên hữu ngạn sông Lạch Tray có một đường bộ liên huyện chạy về phủ Kiến Thụy nằm ở khu vực phía Bắc núi Đối, rồi tiếp tục chạy ra tới Đồ Sơn. Vị trí bến đò Rào cách bến xe cầu Rào ngày nay một đoạn về phía thượng lưu sông. Còn bến bên hữu ngạn sông thuộc tổng Tiểu Trà, huyện Nghi Dương, nay thuộc phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
Còn theo bản đồ hành chính tỉnh Kiến An năm 1909 do người Pháp in, thì người Pháp đã làm đường bộ từ bến đò Rào tới Đồ Sơn. Vào thời điểm này (1909), thì sông Rào (Lạch Tray) chưa có cầu và qua sông He cũng chưa cầu, còn qua sông Hiên (tên khác là Cái Riêng) đã lắp cống hay cầu. Theo bản đồ tỉnh Kiến An năm 1930, thì cầu Rào vẫn chưa được xây dựng. Theo một tài liệu khác, thì cầu Rào được xây dựng cùng với sân bay Cát Bi vào thời gian cuộc chiến tranh thế giới lần II (1938 – 1945). Lúc đầu được làm bằng sắt, sàn ván gỗ. Năm 1946 thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, cầu Rào của tỉnh Kiến An cũng như cầu Nghìn của tỉnh Thái Bình và Hải Dương… bị Việt Minh phá bỏ một số thanh giằng và lột hết ván sàn. Năm 1947 được người Pháp sửa lại và hai bên đặt lô cốt (bốt) canh. Thời chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ lần I (1965 – 1969) bị máy bay Mỹ thả bom làm sập. Năm 1976 được xây dựng lại, năm 1987 cầu tự rơi mất một nhịp vì trình độ làm cầu bằng bê tông của Hải Phòng thời ấy còn kém. Năm 1989 cầu được khánh thành làm bằng sắt. Và năm 2021 cầu Rào II mới được làm lại như hiện nay. Trong thời gian cầu này bị hư hại, thì các phương tiện và người qua lại bằng đò, phà hay cầu phao.
3- Đôn Nghĩa độ, tức bến đò Đôn Nghĩa, sau này người dân địa
phương gọi là bến đò Đạt. Bên tả ngạn sông Nại (từ 1890 là Lạch Tray) là thực địa cánh đồng Vò có giáp chài mang tên Đạt thuộc làng Đôn Nghĩa, tổng An Dương (tổng này gồm An Dương, Đôn Nghĩa, Vĩnh Niệm, Tê Chử, Hoàng Mai, Song Mai, Niệm Nghĩa và Trang Quán), về sau thuộc tổng Đông Khê, huyện An Dương. Theo bản đồ hành chính tỉnh Kiến An do người Pháp xuất bản năm 1909, thì bến đò này nằm ở khoảng cách gần về phía hạ lưu hơn giữa bến đò Niệm Nghĩa và bến đò Rào (tức Cầu Niệm I và cầu Rào I thời nay), nay là khu vực khu Vinhome Cầu Rào thẳng ra sông Lạch Tray thuộc phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân. Tại khu vực bến đò này, người Pháp đã xây bốt đò Đạt ở trên đê khá cao ở cả bên tả ngạn và bên hữu ngạn sông Lạch Tray để bảo vệ thành phố. Còn bên hữu ngạn sông là thực địa tổng Tiểu Trà, huyện Nghi Dương, nay thuộc phường Tiểu Trà, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
4- Niệm Nghĩa độ, tức bến đò Niệm Nghĩa, thường gọi là bến Đạt.
Bên tả ngạn sông Nại (từ 1890 là Lạch Tray) là thực địa giáp chài mang tên Đạt thuộc tổng An Dương, huyện An Dương, nay thuộc phường Niệm Nghĩa, quận Lê Chân. Còn bên hữu ngạn sông là thực địa tổng Đống Khê (gồm 3 làng là Đống Khê, Hoa Khê cùng Mỹ Khê và Mao Khê), từ đầu thế kỷ XX là làng Lãm Hà, tổng Đống Khê, huyện Nghi Dương (sau 1925 là phủ Kiến Thụy, sau 1945 là huyện Kiến Thụy), nay thuộc phường Lãm Hà, quận Kiến An.
Theo bản đồ huyện An Dương thời Đồng Khánh (1886), thì từ cảng Ninh Hải (Hải Phòng) có con đường bộ kéo tới làng Niệm Nghĩa, tổng An Dương, rồi tới sông Nại (từ 1890 là Lạch Tray) là bến đò Đạt. Hay bản đồ phủ Kiến Thụy thời Đồng Khánh (1886) có con đường bộ liên huyện duy nhất từ cảng Ninh Hải (Hải Phòng) qua tổng An Dương ra sông Nại (từ 1890 là Lạch Tray) và qua bến Đạt (達渡) sang bên hữu ngạn sông, rồi qua núi Dương (khu vực núi phường Nam Sơn, quận Kiến An ngày nay) rồi vòng về phủ Kiến Thụy (lúc này phủ thành ở phía Bắc núi Đối) và ngược lên tổng Nghi Dương ra bến Sáu Mươi bên tả ngạn sông Úc. Cũng theo bản đồ này còn một con đường bộ liên huyện từ khu vực gần đối diện huyện lỵ An Dương (làng Rào) kéo đến sông Câu Thượng (Đa Độ) ở khu vực đò Đức Phong, rồi sang phủ Kiến Thụy ở Bắc núi Đối và ngược lên tổng Cao Mật tới bến đò Cẩm La ở sông Úc.
Vậy tại sao ở cùng một đoạn sông Nại này lại có hai bến đò Đạt và đều nằm ở làng Vĩnh Niệm cổ, tức một bến nằm ở làng Niệm Nghĩa và một bến nằm ở làng Đôn Nghĩa. Theo những nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa, thì vào năm 1898 tỉnh lỵ Hải Phòng được chuyển về làng Phù Liễn, tổng Phù Lưu, huyện An Lão, nay là phường Trần Thành Ngọ, quận Kiến An. Và vào thời gian này, thì thành phố Hải Phòng tách khỏi tỉnh Hải Phòng, tỉnh này ngay sau đó mang tên Phù Liễn, đến 1906 đổi thành tỉnh Kiến An. Chính vì lý do trên mà từ cuối thế kỷ XIX người Pháp đã mở mang quy hoạch thành phố Hải Phòng và đầu tư phà cho bến đò Niệm Nghĩa. Và từ đó xóm chài Đạt đã dịch chuyển xuống mảnh đất hoang phía hạ lưu sông ở cùng xã (làng) Vĩnh Niệm cổ để sinh cơ lập nghiệp.
Vào năm 1934 cầu Niệm (hay cách gọi khác là cầu Lãm Hà) được xây dựng bằng bê tông và vào năm 1952 làm lại bằng sắt rộng dài hơn. Vì vậy bến đò Niệm Nghĩa chính thức kết thúc vai trò hoạt động của mình.
5- Xích Thổ độ, tức bến đò Xích Thổ. Bên tả ngạn sông là bến làng Xích Thổ, tổng Điều Yêu (tổng này gồm 10 làng là Điều Yêu Thượng, Điều Yêu Hạ, Điều Yêu Đông, Nhu Điều, Trí Yếu, Đào Yêu, Điều Yêu Trung, Xích Thổ, Hy Tải, Tiên Sa), huyện An Dương, nay thuộc xã Hồng Thái, huyện An Dương. Còn bên hữu ngạn sông là làng Cựu Viên, tổng Văn Đẩu, huyện An Lão, nay thuộc phường Bắc Sơn, quận Kiến An. Còn
6- Đào Yêu độ, tức bến đò Đào Yêu. Bên tả ngạn sông Nại (từ 1890 là Lạch Tray) là làng Đào Yêu, tổng Điều Yêu (tổng này gồm 10 làng là Điều Yêu Thượng, Điều Yêu Hạ, Điều Yêu Đông, Nhu Điều, Trí Yếu, Đào Yêu, Điều Yêu Trung, Xích Thổ, Hy Tải, Tiên Sa), huyện An Dương, nay thuộc xã Hồng Thái, huyện An Dương. Còn bên hữu ngạn sông là bến thôn Thượng Chất, tổng Văn Đẩu, huyện An Lão, nay thuộc phường Bắc Sơn, quận Kiến An.
Theo bản đồ huyện An Dương, thời Đồng Khánh (1886) hay bản đồ tỉnh Hải Phòng xuất bản năm 1890, thì chưa có tuyến đường bộ liên huyện qua vị trí bến đò này. Từ cuối thế kỷ XIX, thì huyện lỵ An Dương chuyển về Trí Yếu như ngày nay, thì người Pháp cho xây dựng tuyến đường bộ nối tỉnh lỵ Kiến An với huyện lỵ An Dương với nhau. Lúc đầu chỉ có đò ngang, sau đó một thời gian thì có phà gỗ dùng sức người. Từ năm 1974 đến năm 2002 phà này được thay thế bằng cầu Treo. Năm 2005 khánh thành cầu bê tông cốt thép mang tên Kiến An.
7- Điều Yêu độ, tức bến đò Điều Yêu. Bên tả ngạn sông Nại (từ 1890 là Lạch Tray) là làng Điều Yêu, tổng Điều Yêu (tổng này gồm 10 làng là Điều Yêu Thượng, Điều Yêu Hạ, Điều Yêu Đông, Nhu Điều, Trí Yếu, Đào Yêu, Điều Yêu Trung, Xích Thổ, Hy Tải, Tiên Sa), huyện An Dương, nay thuộc xã Quốc Tuấn, huyện An Dương. Còn bên hữu ngạn sông là bến làng Văn Tràng, tổng Văn Đẩu (tổng này gồm 5 làng là Văn Đẩu, Văn Tràng, Cựu Viên, Kha Lâm và Khúc Trì), nay thuộc xã Trường Sơn, huyện An Lão.
8- Trạm Bạc độ, tức bến đò Trạm Bạc. Bên tả ngạn sông Nại (từ 1890 là Lạch Tray) là làng Trạm Bạc, tổng Văn Cú (tổng này gồm 11 làng là Văn Cú, Lương Quy, Hoàng Lâu, Hoa Phong, Đồng Dụ, Tràng Duệ, Vĩnh Khê, Ô Kha, Vân Tra, Đồng Giới và Trạm Bạc), huyện An Dương, nay thuộc xã Lê Lợi, huyện An Dương. Còn bên hữu ngạn sông là bến làng Tiên Hội, tổng An Luận (tổng này gồm 6 làng là Liễn Luận, Khúc Giản, An Luận, Tiên Hội, Bách Hoa và Xuân Áng), huyện An Lão, nay thuộc xã Trường Thành, huyện An Lão.
9- Tỉnh Thủy độ, tức bến đò Tỉnh Thủy. Bên tả ngạn sông là giáp Tỉnh Thủy, làng Hoàng Lâu, tổng Ngọ Dương (tổng này gồm 4 làng, giáp là Ngọ Dương, Hoàng Lâu, giáp Tỉnh Thủy thuộc làng Hoàng Lâu), huyện Kim Thành, phủ Kinh Môn. Đầu thế kỷ XX giáp Tỉnh Thủy trở thành đơn vị hành chính cấp xã (làng) và tổng Ngọ Dương được cắt về huyện An Lão, sau cắt về huyện An Dương, nay thuộc xã An Hòa, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Còn bên hữu ngạn sông là bến làng Ngọc Chử, tổng An Luận, huyện An Lão, nay thuộc xã Trường Thọ, huyện An Lão.
10‑ Phí Xá độ, tức bến đò Phí Xá (nay là bến đò Kim Sơn). Bên hữu ngạn sông Kinh Môn (nay là sông Vận) là làng Phí Xá, tổng Vụ Nông (tổng này gồm 8 làng là Vụ Nông, Khinh Dao, Phí Xá, Bắc Nguyễn, Nguyễn Xá, Tuyền Đông và Lê Xá), huyện Giáp Sơn. Đầu thế kỷ XX tổng Vụ Nông này được cắt về huyện An Lão, sau cắt về huyện An Dương, nay thuộc thôn Kim Sơn xã Lê Thiện, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Còn bên tả ngạn là bến làng An Thủy, thuộc tổng Yên Lưu, huyện Giáp Sơn, nay thuộc phường Hiến Thành, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
11- Lực Nông độ (力農渡), tức bến đò Lực Nông (thời nay là Trại Kênh), bên hữu ngạn sông Kinh Môn (thời nay là sông Vận) là bến làng Lực Nông (trước thời Đồng Khánh là Vụ Nông), tổng Vụ Nông (tổng này gồm 8 làng là Vụ Nông, Khinh Dao, Phí Xá, Bắc Nguyễn, Nguyễn Xá, Tuyền Đông và Lê Xá), huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn. Đầu thế kỷ XX tổng Vụ Nông được cắt về huyện An Lão, sau cắt về huyện An Dương, nay là bến đò Trại Kênh thuộc xã Lê Thiện, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Còn bên tả ngạn sông là bến làng Tam Đa, tổng Yên Lưu, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, nay thuộc xã Minh Hòa, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương...
(Còn 12 bến đò nữa)
NGỌC TÔ
Các tin khác
-
NGUỒN GỐC HỌ TÔ NỘI TẠ
-
BẾN QUÊ NỘI TẠ (PHẦN I)
-
“HÀ CẦU, HẠ HỒNG – SƠN ĐỒNG, QUỐC OAI”
-
NAM TƯỚNG LÊ CHÂN
-
SÔNG “KINH THẦY” CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
ĐỒN SƠN CHU DU KÝ
-
BẾN GÓT – CÁI VIỀNG HUYỆN CÁT HẢI (HẢI PHÒNG)
-
ĐÒ DỌC HUYỆN NGHI DƯƠNG (KIẾN THỤY – HẢI PHÒNG)
-
SẮC PHONG CHO THỔ THẦN LẠI BIẾN THÀNH NHÂN THẦN TRẦN QUỐC BẢO
-
PHU NHÂN CỤ TỔ HỌ TÔ NỘI TẠ - VĨNH BẢO