VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Văn xuôi
ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?
Trong bài “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu có địa danh “đại than”, thì thời nay rất nhiều các nhà chuyên môn cho rằng nó ở khu vực “Lục đầu giang”...ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?
.
Trong bài “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu có địa danh “đại than”, thì thời nay rất nhiều các nhà chuyên môn cho rằng nó ở khu vực “Lục đầu giang”, tức sông sáu đầu nổi tiếng với “Hội nghị Diên Hồng” trên đảo Bình Than. Xin trích đoạn đầu của bài phú (nguồn theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập II, Nhà Xuất bản Văn học, 1976):
Nguyên văn chữ Hán (Vũ Hoàng):
白藤江賦
客有:
掛汗漫之風帆
拾浩蕩之海月.
朝嘎舷兮沅湘
暮幽探兮禹穴.
九江五湖
三吳百粵.
人跡所至
靡不經閱.
胸吞雲夢者數百而
四方壯志猶闕如也.
乃舉楫兮中流
縱子長之遠遊.
涉大灘口
溯東潮頭.
抵白藤江
是泛是浮.
接鯨波於無際
蘸繇尾之相繆.
水天一色
風景三秋…
Phiên âm:
Bạch Đằng giang phú
Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên, Tương,
Mộ u thám hề Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp đại than khẩu(1),
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu…
Dịch nghĩa:
Phú sông Bạch Đằng (Vũ Hoàng)
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa biển lớn (đại than)
Ngược đến địa phận Đông Triều
Là sông Bạch Đằng
Thấy thuyền bồng bềnh trôi
Nơi đây bát ngát sóng kình muôn dặm
Dáng như đuôi trĩ thướt tha
Nước trời một sắc,
Phong cảnh ba thu.
Bờ lau san sát,
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô…
__________
(1)- Xin chú giải như sau: Cụm từ Thiệp đại than khẩu (涉大灘口), thì chữ thiệp (涉) là động từ có nghĩa là qua, lội qua, còn chữ đại (大) là tính từ có nghĩa là to, hay lớn. Chữ than (灘) là danh từ có nghĩa là đất ven nước, nếu gọi sa than (沙灘) là cồn cát, hay hải than (海灘) là bãi biển. Còn chữ khẩu (口) là danh từ có nghĩa là mồm, hay cửa. Và câu tiếp theo là Tố Đông Triều đầu (溯東潮頭), nghĩa là Ngược đến địa phận Đông Triều. Qua câu thơ này, ta có thể khẳng định rằng thi sỹ Trương Hán Siêu đi từ cửa biển ngược lên thượng nguồn. Còn nếu đi từ “Lục đầu giang” tới thì sẽ là xuôi xuống địa phận Đông Triều.
Trong các bài trước viết về sông Bạch Đằng, chúng tôi đã chứng minh huyện Đông Triều vào thời Đồng Khánh vẫn còn nghề làm muối. Do vậy cụm từ “đại than khẩu” có thể xảy ra hai trường hợp là: Thứ nhất là “Cửa bãi biển lớn” ở khu vực gần cửa Bạch Đằng, hay thứ hai "Than" là danh từ riêng thì là “Cửa Than lớn”. Trong đó trang 22 sách “Đại Nam nhất thống chí” tập IV xuất bản thời Nguyễn có ghi: “Sông Cửa Than cách huyện Hoành Bồ 25 dặm về phía Đông, gồm 2 nguồn: Một nguồn từ xã Lưỡng Kỳ chảy về phía Nam 20 dặm, một nguồn từ phía Tây Nam xã Vũ Oai chảy 13 dặm, rồi hợp nhau mà chảy về phía Tây 18 dặm, hợp với sông Xích Thổ, lại chảy 12 dặm qua núi Phượng Cát đổ ra Lục Hải Khẩu ((錄海口), tức cửa biển Lục”. Như vậy trường hợp thứ 2 là tác giả đi từ khu vực phà Bãi Cháy ngày nay ngược về phía sông Bạch Đằng. Đặc biệt vào thời nhà Trần thì cửa biển Bạch Đằng còn ở khu vực phà Rừng ngày nay.
NGỌC TÔ
Các tin khác
-
ĐẤT CẢNG HẢI PHÒNG
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
TẠI SAO LÀNG CAN TRÌ LẠI ĐỔI THÀNH HU TRÌ?
-
SÔNG BẠCH ĐẰNG CÒN GỌI LÀ SÔNG RỪNG (DẦNG)?
-
"DỌN VƯỜN II" VỀ VIỆC TÊN PHƯỜNG, XÃ THEO SỐ THỨ TỰ VÀ ĐÁNH SỐ NHÀ
-
SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
CHÙA VẼ HẢI PHÒNG CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
“DỌN VƯỜN” TÊN CÁC DI TÍCH
-
SÔNG PHÚ NÔNG Ở PHÍA ĐÔNG ĐỀN HÙNG