/Cỏn con một sợi lông mày. Mà đem cột trái đất này vào anh/ Thơ Trần Mạnh Hảo

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

THƠ VĂN BẠN BÈ

THƠ BẢNG NHÃN ĐÀO CÔNG CHÍNH

Trong những năm đi sứ nhà Thanh, ông đã làm khá nhiều thơ và hiện nay còn lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với 89 bài thơ hầu hết là thể thơ thất ngôn bát cú.

       THƠ BẢNG NHÃN ĐÀO CÔNG CHÍNH

.

       Trong những năm đi sứ nhà Thanh, ông đã làm khá nhiều thơ và hiện nay còn lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với 89 bài thơ hầu hết là thể thơ thất ngôn bát cú. Chúng tôi xin trích một số bài trong tập “Bắc sứ thi tập” của Bảng nhãn Đào Công Chính, người làng Hội Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Dịch và chú thích của Lê Xuân Khải, hiệu đính Hoàng Văn Lâu như sau:

Phiên âm Hán Việt:

ĐÔNG TÙNG THI

Đào Công Chính xướng

 

Tứ thời giai mỹ tận xưng trường,
Ái nhĩ kiên trinh tính độc cương.
Địa thượng sinh thành tài quán sở*
Thiên trung đặc lập tiết lăng sương.
Bắc phong cầm cổ quần thanh hứng,
Đông lĩnh danh cao vạn cổ hương.
Tá vấn trượng phu hà đại dụng,
Ư thân vi đống dữ vi lương.

Dch nghĩa:

THƠ CÂY TÙNG MÙA ĐÔNG

        Bài thơ xướng của Đào Công Chính

 

Bốn mùa tươi tốt ai cũng khen
Yêu ngươi riêng giữ khí tiết bền
Mọc từ đất lên, tài năng trội nhất loài gỗ
Sừng sững giữa trời, ngạo nghễ gió sương
Gió bắc thổi, reo lên như muôn tiếng đàn
Tên nổi ở non đông, hương thơm muôn thuở
Muốn hỏi bậc trượng phu có được đại dụng gì
Đem thân để làm rường và làm cột

     Dịch thơ:

 

Bốn mùa tươi tốt thảy đều khen
Riêng vững yêu ngươi khí tiết bền
Quán sở(1) hiên ngang từ đất mọc,
Khinh sương ngạo nghễ giữa trời lên
Đàn reo gió bấc muôn âm vọng,
Thơm nổi non Đông vạn cổ truyền.
Muốn hỏi trượng phu sao đại dụng
Thân làm rường cột ấy là nên.

_________

(1): Quán sở, nghĩa là quán quân, đứng đầu các loại gỗ

        Phiên âm Hán Việt:

VỊNH THÁI BÌNH PHONG CẢNH THI

        Phó sứ Đào Công Chính tác

Thiên triều cước đạp tổng xuân sinh,
Tài đáo ư kim đổ Thái Bình.
Thượng giải vũ sâm phô Hán thị,
Hạ nguyên phái dẫn nhiễu Kim thành.
Chính ưu tích mỹ Giang bài tiếm
Trị tối kim xưng Mã chính danh
Ta cảnh đãi nhân đồng trí hảo,
Vãng trường hồi ngoạn khoái đa tình.

     Dịch nghĩa:

THƠ VỊNH PHONG CẢNH THÁI BÌNH

        Phó sứ Đào Công Chính làm

Đặt chân đến đất thiên triều, nơi nào cũng đẹp
Mãi đến nay mới được ngắm cảnh Thái Bình.
Bên trên là cảnh chợ Hán, nhà cửa san sát,
Phía dưới nhánh sông chảy lượn quanh thành Vàng
Chính sách tốt, ngày xưa Trường Giang bồi đắp
Quản lý giỏi, nay đúng với tên Mã.
Cảnh đợi người cùng làm nên vẻ đẹp,
Quanh quẩn ngắm mãi, có nhiều tình cảnh vui thú.

     Dịch thơ:

 

Thiên triều chân đặt thảy xuân sinh,
Nay mới được xem cảnh Thái Bình(1).
Chợ Hán bờ trên vui tấp nập,
Thành Kim nhánh dưới uốn bao quanh.
Chính hay xưa đẹp Giang(2) bồi đắp,
Trị tốt nay xưng Mã(3) đúng danh.
Cảnh ấy đợi người chung góp đẹp,
Quẩn quanh ngắm mãi thú bao tình.

__________

(1): Thái Bình, tên phủ thuộc tỉnh Quảng Tây, nay thuộc huyện Sùng Tả - Quảng Tây (trung tâm là thành phố Bằng Tường)

(2): Ý nói qua các triều đại đã hình thành nền văn minh lúa nước dọc vùng Trường Giang

(3): Có lẽ nhắc tới vùng đô hội bên hữu ngạn Trường Giang, nay là Mã Yên Sơn.

 

Phiên âm:

LƯU DÂN TỰ THÁN THI

       Đào Công Chính xướng

  Thử nhân ngã quốc Hoa Phong (封) nhân, bỉ bị kiếp lưu, mẫu tử cơ khát đãi thậm. Nhưng tác thi khất hoàn, nhưng tống bỉ mẫu tử hoàn quốc.

Vương hữu Nghiêu quân đức trạch tuyên,

Nhẫn linh tàn mẫu chí điên liên.

Y tư già thể vô ma bố,

Thực dục sung nhi khiếm chúc chiên.

Uất uất dư niên thê Bắc địa,

Huyền huyền thốn niệm tại Nam thiên.

Tứ hồi hạnh kiến gia phu tử,

Chi đức chi công vĩnh vạn niên.

Dịch nghĩa:

BÀI THƠ DÂN LƯU LẠC TỰ THAN

Bài thơ xướng của Đào Công Chính

        Người đàn bà này là người Hoa Phong(1) nước ta. Vì bà ta bị cướp sang đây, hai mẹ con rất đói khát, nên làm thơ xin cho về, lại đưa mẹ con họ về nước.

Vương có vua Nghiêu nức tiếng đồn về ân đức,

Sao lại nỡ để cho bà mẹ tàn tạ vất vả đến thế.

Muốn có cái áo gai để che thân cũng chẳng có,

Muốn cho con ăn đến cháo cũng thiếu.

Trải buồn tủi nhiều năm nơi đất Bắc,

Nỗi lòng đau đáu ngóng về phương Nam.

Cho về may gặp lại chồng con,

Đức ấy công kia mãi muôn năm vẫn còn.

     Dịch thơ:

Vua có vua Nghiêu đức trạch đồn,

Nỡ sao để mẹ héo con mòn.

Áo đay không có che thân mẹ,

Bát cháo chẳng còn ấm bụng con.

Đất Bắc dãi dầu đời đói khổ,

Trời Nam đau đáu nỗi cô đơn.

Cho về mong gặp chồng con lại,

Đức ấy công kia mãi mãi còn.

_________

(1): Hoa Phong, sau là Nghiêu Phong gồm toàn bộ thực địa Cát Hải, Cát Bà, Quan Lạn và Cô Tô.

NGỌC TÔ sưu tầm