VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Văn xuôi
BẾN QUÊ NỘI TẠ (PHẦN I)
Thực địa của Nội Tạ được trải dài theo bên tả ngạn “Dòng Hóa Giang chở nặng phù sa” từ cống Gạo xã Hiệp Hòa đến cống TèBẾN QUÊ NỘI TẠ (PHẦN I)
(Bút ký của Ngọc Tô)
1-
Sau những năm tháng dài đằng đẵng xa xứ, rồi lại mải miết lang bang trên các vùng đất lạ, tôi ít có thời gian về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đặc biệt, từ khi bố mẹ tôi chuyển ra thành phố và hơn chục năm nay các cụ đã về với tổ tiên, nên nay nhân giỗ Tổ mười hai tháng giêng âm lịch, tôi cùng một số anh chị em từ mấy tỉnh thành phía Bắc về quê theo lời hẹn hàng năm. Con đường dẫn chúng tôi về Nội Tạ cũng gian nan vất vả như chính cuộc đời tần tảo của người dân quê tôi thuộc các lớp thế hệ trước. Gần tới nơi, cháu Duy Cường nhanh nhảu hỏi:
- Làm thế nào mà nhớ đường về quê hả bác?
- Cứ dọc quốc lộ Mười qua thị trấn Vĩnh Bảo đến gần địa phận giáp danh với tỉnh Thái Bình thì rẽ phải, rồi qua cầu Kê Sơn là vào xã An Hòa quê ta.
- Làm sao lại gọi là cầu Kê Sơn?
- Vì bên tả ngạn của kênh Tranh Giếc là thực địa của làng Kê Sơn, tổng Kê Sơn, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, nay thuộc xã Hưng Nhân, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Còn bên hữu ngạn là làng Kinh Hữu, tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, nay là thôn Kênh Hữu, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Lúc này đất trời bảng lảng, muôn hạt mưa li ti còn mơn man trên muôn cành lá, vấn vít từng mái ngói thôn xóm nơi đây. Vừa đắm chìm trong cảm xúc yên bình của làng quê và qua hai lần rẽ trái, Nội Tạ đã hiện ra trước mặt. Đây là một làng quê nằm ở vị trí tương đối thấp so với các làng phía Tây Bắc, còn đồng chiều tương đối trũng, nên đất đai phía Nam làng chỉ phù hợp với nghề trồng lúa nước và nuôi trồng thủy sản.
Theo các tư liệu cổ, thì khu vực này từ xa xưa thuộc Tạ Xá (謝厙), có nghĩa là trang Tạ. Về sau khi các địa danh được dùng bằng hai từ, thì cái tên Tạ Xá xã (謝舍社), tức xã Tạ Xá ra đời. Và dải đất từ phía Tây về Đông làng dọc theo sông Tranh (từ 1890 là sông Hóa), tức từ khu vực chùa Sòi kéo tới bờ hữu ngạn kênh Tranh Giếc, sau này còn gọi theo tên khác là sông Gừng với chiều dài chừng ba cây số. Và bề ngang từ phía Nam kéo tới phía Bắc làng, tức từ sông Tranh, cũng như từ sở Tây Tạ (sau là thôn Thượng Đồng) và từ làng Kinh Hữu tới thực địa xã Oai Nỗ thuộc các thôn Gạo, Bi, Mòi cùng với thực địa xã Xuân Cốc với bề ngang chừng gần hai cây số.
Theo tục truyền, thì Tạ Xá đã có người tới sinh sống từ cuối thời nhà Đường (618 - 907), lúc đầu chỉ là những công dân tới đây tới đây với nghề chài lưới. Đến thời Tiền Lê (980 – 1009), thì mới có một số người đến khai hoang lập ấp. Tới thời Lý – Trần (1010 – 1400), thì mới hình thành trang Tạ Xá thuộc huyện Tứ Kỳ, châu Hồng, sau thuộc châu Đông Triều, phủ lộ Tân Hưng. Tới cuối thời Mạc (1527 – 1592), thì giáp Tây của Tạ Xá đủ 25 hộ dân và trở thành đơn vị hành chính cấp xã và mang tên Nội Tạ xã (內謝社), tức xã Nội Tạ. Xã Nội Tạ lúc này vẫn thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, đạo Hải Dương. Phía Đông giáp với Trung Tạ (nay là Tạ Ngoại), phía Tây giáp với xã Uy Nỗ (thôn Gạo), phía Nam giáp với sông Tranh (từ 1890 đổi thành sông Hóa), phía Bắc giáp với xã Uy Nỗ (thôn Bi). Đất Đai từ bìa làng phía Bắc hắt lên phía trên thì cao ráo, phù hợp với cấy lúa nước và trồng hoa màu. Còn từ bìa làng phía Nam tới sông Hóa là vùng đất trũng gọi là đồng chiều, phù hợp với cấy lúa nước và nuôi trồng thủy hải sản. Thực tế, lúc tôi còn ở quê, thì khu vực chân đê là thùng vũng, chỉ có lau lác và rong rêu. Cả cánh đồng chiều xuất hiện nhiều loại thủy hải sản, mà thôn dân có thể săn bắt về ăn hay mang bán. Tôi cũng không hiểu vì sao, Nội Tạ lại có nghề bắt tôm cá kỳ quặc là “tát bắt cho bằng hết” các loài thủy hải sản từ những con nhỏ bé nhất, thế nên tại khu vực này có câu ca:
Làng Nội lọc nước lấy cái
Làng Bi xẻo dái ăn tiền
Làng Tráng ngâm háng kiếm tôm
Làng Tè lấm “hồn” canh ngọt
Cách nay chừng trên chục năm, khi được tiếp cận với bản đồ huyện Vĩnh Bảo thời Đồng Khánh (1886), tôi mới phát hiện ra phần lớn đất đai cánh đồng phía Nam của làng đều thuộc huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang. Tức dải đất theo tả ngạn sông Tranh (từ 1890 là sông Hóa) từ làng Tranh Chử tới cống Tè (Trung Tạ), đều thuộc thực địa huyện Vĩnh Lại. Tôi mới đùa với mấy mấy cháu: Người dân làng ta còn có thể nhận là “con cháu Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm”, chứ thôn dân lục tổng phía trên của huyện Vĩnh Bảo chỉ ăn theo mà thôi, chứ hoàn toàn không có dính líu gì đến Vĩnh Lại quê Trạng? Mọi người đều phá lên cười.
Thế ruộng đất của làng mình từ đâu đến đâu hả bác. Tôi trầm ngâm rồi từ từ giải thích. Theo Địa bạ cổ của huyện Tứ Kỳ và huyện Vĩnh Lại năm Gia Long thứ 4 (1805), được sao lưu vào tháng 7 năm Minh Mạng thứ 11 (1830), thì ruộng đất của xã Nội Tạ, tổng Bắc Tạ gồm các xứ (khu) sau:
- Xứ Đồng Rộc, từ khu vực bìa làng cũ phía Bắc hắt lên phía trên tới điền giới xã Uy Nỗ, tức thôn Bi và thôn Gạo kia kìa.
- Xứ Mả Bột, từ khu vực từ bìa làng cũ phía Bắc hắt lên phía trên, có thể là khu vực đồng Cao kéo từ bìa phía Bắc làng tới địa giới làng Bi.
- Xứ Đống Củ, thì phía Đông giáp xứ Đồng Rộc, phía Tây giáp ruộng Uy Nỗ (thôn Gạo) và phía Bắc giáp ruộng Uy Nỗ (thôn Gạo).
- Xứ Đống Trúc, thì phía Đông giáp khu dân cư, phía Nam giáp đường lớn, phía Bắc giáp xứ Đống Củ và phía Tây giáp Uy Nỗ, tức thôn Gạo.
- Xứ Mả Ngô, thì phía Đông giáp ngõ nhỏ, phía Bắc giáp ao, phía Tây giáp xứ Cửa Đình.
- Xứ Cửa Đình (phía Đông giáp xứ Mả Ngô, phía Tây giáp đường nhỏ, phía Nam giáp ngõ nhỏ, phía Bắc giáp đường nhỏ), thời cổ đình Tạ Xá (sau này là đình Ba Xã) ở đống Miễu (nay thuộc khu vực nghĩa địa họ Nguyễn Xuân Nội Tạ), sau chuyển về khu vực chỗ vườn tre nhà ông Nhụt (xóm Trong) thời nay hướng nhìn xuống sông Hóa. Từ năm 1944, thì đình Nội Tạ được xây dựng lại tại đống Trúc. Căn cứ vào các tư liệu tại Địa bạ xã Nội Tạ năm Gia Long thứ 4 (1805), ta có thể xác định đình Nội Tạ ở vị trí khu vực rặng tre nhà ông Nhụt ít nhất từ thế kỷ XVIII. Còn theo Hương ước xã Nội Tạ năm 1936, thì ruộng đình có 7 sào được giao cho thủ từ ở đình cày cấy lấy hoa lợi để đèn hương và đình được xây dựng từ lâu. Còn theo ông nội tôi là cụ Tô Văn Rực kể lại từ năm 1959, thì đình Nội Tạ mặt tiền hướng xuống chiều, nên sau này đình làng xây dựng tại đống Trúc (1944) cũng lấy theo hướng đình cũ là hướng Nam. Vì thế, xứ Cửa Đình nằm ở khu vực phía bên phải đường từ xóm Trong Nội Tạ đi xuống đống Làn, còn xứ Mả Ngô nằm ở khu vực phía bên trái đường này, nay một phần phía Bắc của 2 xứ này là nơi cư dân xóm Trong sinh sống.
- Xứ Sầu Đâu, vì chữ Sầu (愁) có nghĩa là buồn bã, nên thôn dân nơi đây còn gọi là Thầu Đâu (khu vực gần tới đê sông Hóa từ xóm Ngoài chiếu thẳng ra)
- Xứ Cầu Bản (từ khu vực xóm Ngoài chiếu thẳng ra nằm ở phía Bắc của xứ Sầu Đâu, phía Bắc xứ này giáp mương nhỏ)
- Xứ Cống Biệt, có thể sau này là Cống Cộc (khu vực xóm Giữa - Ngoài nhìn xuống sông Hóa, phía Tây của xứ Sầu Đâu)
- Xứ Chân Đường (phía Đông giáp điền giới xã Trung Tạ, Nam giáp thôn)
- Xứ Đường Giới (phía Tây giáp xứ Cao Thiên), tức phía Nam của xứ Đống Làn
- Xứ Đồng Đanh (gần khu vực Đồng Quân, phía Tây giáp khu dân cư bản xã)
- Xứ Cửa Chùa (phía Nam giáp xứ Đống Làn)
- Xứ Cao Thiên (khu vực cây đa Cao Thiên, phía Đông giáp xứ Đống Làn) và có một thửa chừng vài mẫu chòi sang bên Uy Nỗ (thôn Gạo), sau này gọi khu vực trên là xứ Cầu Ván.
- Xứ Đống Làn (khu vực xóm Trong thẳng xuống chiều)
- Xứ Đồng Bốn hay Bún (phía Đông giáp tư điền bản xã, Tây giáp xứ Ngõ Xóm, khu vực nhà ông Cư xóm Ngoài nhìn ra chiều)
- Xứ Ông Lỗi, hoặc là xứ “Thợ Cày” (bốn phía là đất ruộng), sách ghi đất hai gò (đống), có thể thời nay là xứ đồng Cao?
- Xứ Đống Bến, sau này là khu Đầm Bến, nay là khu dân cư phía Nam xóm Giữa của Nội Tạ và chỗ ngoài sông Mới). Sau này, thì xứ Đống Bến, Mả Ngô và Cửa Đình gọi chung là xứ Đầm Bến vì đất đai nằm ở vị trí trũng, thường xuyên bị ngập lụt khi có mưa. Vào những năm 60 – 70 thế kỷ XX, khu vực này còn mọc nhiều lau lác và rong rêu cho lợn ăn.
Thời đầu nhà Nguyễn (1805), thì xã trưởng (sau này gọi là Lý trưởng) là ông Nguyễn Đình Điền. Còn thôn trưởng (xóm trưởng hay giáp trưởng) của hai thôn (xóm Trong và xóm Ngoài, từ thế kỷ XX thành ba xóm) là Nguyễn Tiến Lộc và Nguyễn Đình Thụy. Qua đây ta có thể khảng định Nội Tạ lúc đó có hai giáp (xóm) với chừng trên 25 hộ gia đình. Vì theo quy định, thì một đơn vị hành chính cấp xã (社) gồm 25 hộ gia đình. Đến năm 1936 lúc làng lập Hương ước, thì Nội Tạ đã có 6 giáp (xóm).
Cũng qua địa bạ cổ này chúng tôi thấy tại làng Nội Tạ cách nay 220 năm, thì có bà Phạm Thị Triền là người lấy chồng bản xã làm chủ ruộng tư và toàn bộ chủ sở hữu ruộng đất tư người bản xã còn lại đều thuộc người họ Nguyễn sở hữu. Ngoài ra tại bản xã còn có một số dòng họ khác tới ở, nhưng chưa có ruộng đất tư canh tác. Hay tại xứ Đống Làn có thửa đất 2.1.00.0.0 xứ Đống Làn phía Bắc giáp xứ Cửa Chùa của ông Trần Văn Thập, người xã Tiên Bố, tổng Tiên Bố, huyện Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam Hạ, nay thuộc xã Quỳnh Thọ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phụ canh (người nơi khác sở hữu ruộng đất tư). Sau này các hậu duệ của ông Trần Văn Thập trở thành dòng họ Trần Nội Tạ, thời nay tộc trưởng là ông Trần Văn Thau ở xóm Trong. Cũng theo địa bạ này, thì bãi tha ma ở hai khu vực là đống Làn và đống Củ.
Theo danh sách địa bạ cổ (1805) này, thì họ Nguyễn có những chi họ sau: Nguyễn Duy; Nguyễn Tiến; Nguyễn Đình; Nguyễn Hữu; Nguyễn Trọng; Nguyễn Văn; Nguyễn Viết; Nguyễn Đăng, Nguyễn Thị. Chắc chắn còn một hai dòng tộc khác nữa hay một số chi họ Nguyễn khác nữa mới đến định cư, hay lâm vào cảnh bần hàn chưa sở hữu ruộng đất tư, nên chưa có trong danh sách sở hữu ruộng đất tư canh tác.
Tới sau cách mạng tháng 8 năm 1945, thì chính quyền cách mạng hoàn toàn mới, áp dụng theo luật mới, nên chẳng ai quan tâm tới khai sinh, giấy căn cước hay hộ tịch, hộ khẩu nữa. Ngay bản thân tôi nay đã cuối đời rồi, mà cũng chưa nhìn thấy bản chính giấy khai sinh bao giờ. Chả thế, hai anh em ruột gốc họ Nguyễn Tiến (chi phải nhà ông Nguyễn Tiến Triệu, ông Nguyễn Tiến Chiểu), khi đi bộ đội thì xã đội khai hộ lý lịch là Hoàng Quốc Lập và Hoàng Công Thức và cũng chẳng thấy sao. Sau gần chục năm chiến đấu tại chiến trường miền Nam, ông Hoàng Công Thức (tên thật là Nguyễn Tiến Thức) hy sinh. Sau này làm các chế độ cho liệt sỹ tại địa phương gặp vô vàn khó khăn. Hay từ năm 1970 trở về trước, thì các gia đình ở nông thôn chưa có sổ hộ khẩu hộ tịch, sau đó cán bộ địa phương làm hộ khẩu cho các hộ gia đình. Vì thế họ Nguyễn nếu là nam giới, thì đệm là Văn, còn nữ giới đệm là Thị và các tên đệm từ trước bị bỏ như Tiến, Đình, Hữu, Duy, Trọng, Viết, Đăng... Đặc biệt những trường hợp ở rể của những người dòng họ khác, thì dễ bị ghép họ vào số đông người Nguyễn tộc hay Tô tộc chẳng hạn, gây rất nhiều phiền hà cho hậu duệ đời sau. Tôi được biết ở một số xã tại Vĩnh Bảo, những người đến ở rể thì được cán bộ địa phương làm hộ khẩu theo phần lớn gia đình mang họ Nguyễn, hay họ Phạm chẳng hạn, còn những người đi thoát ly thì họ khai đúng dòng họ của mình. Vì thế mà hai anh em ruột cùng một bố một mẹ, mà mang hai họ là vậy.
Rồi cũng vào thời gian này ở Nội Tạ một số gia đình chi họ Nguyễn lại đổi thành họ khác như họ Xuân, họ Trọng... Lúc tôi làm thủ tục giúp cho Mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Lan ở Nội Tạ, thì tên con gái bà mang họ Xuân, còn chồng bà và con trai bà mang họ Nguyễn Xuân. Nếu không có sự quen biết rộng và sự giúp đỡ của một số cơ quan, thì không biết đến bao giờ mới làm được thủ tục được cho bà Lan. Hay lúc tôi làm thủ tục cấp Bằng Tổ quốc ghi công cho các liệt sỹ tại Vĩnh Bảo và một số tỉnh khác cũng gặp một số trường hợp như vậy. Hay trường hợp của bác Nguyễn Xuân Năm (Điềm), thì lại đổi là Xuân Anh Năm. Hay dòng họ Nguyễn Trọng, thì lại đổi thành họ Trọng Đình, như trường hợp của nguyên Chủ tịch UBND xã là Trọng Đình Tiếu, hay Liệt sỹ Trọng Đình Tiêu, thực sự họ Trọng và họ Xuân chưa có trong các dòng họ Việt Nam trước năm 1955. Qua một thời gian dài, người ta không trọng dòng họ hay tên gọi, nên rất nhiều người khi đi thoát ly thường cải thành tên khác. Vì thế lúc tôi làm thủ tục hộ rất nhiều gia đình liệt sỹ ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, ở tỉnh Hải Dương... gặp vô vàn khó khăn và các gia đình hưởng chế độ chính sách trên chịu nhiều thiệt thòi bởi những cái tên “giời ơi đất hỡi”, mà anh em, chú bác, bố mẹ, ông bà họ... đổi từ lúc đi bộ đội.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, thì họ Nguyễn Nội Tạ gồm nhiều chi đến từ nhiều vùng quê khác nhau vào các thời gian khác nhau. Ví như chú cháu nhà ông Lang Đản, Lang Viện đến từ làng Bùng huyện Ninh Giang, nay thuộc xã Vạn Phúc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, đã mang nghề thầy thuốc đến chữa bệnh cho dân làng. Hay chi phái nhà ông Ất cũng từ nơi khác đến Nội Tạ vào thế kỷ XX. Hay ông Nguyễn Văn Rã là người làng Kiến Quan, tổng Lương Xá, huyện Phụ Dực, Thái Bình làm con nuôi ông Nguyễn Văn Hạnh ở xóm Ngoài, sau sinh ra ông Nguyễn Văn Hằng (vợ là bà Tô Thị Thanh). Hay ông Nguyễn Văn Thái là người họ Nguyễn làng Cúc Phố, xã Vinh Quang theo mẹ về sinh sống tại Nội Tạ.v.v
Theo Bia Tiến sỹ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám tại Hà Nội dựng ngày 10 tháng 11 năm Cảnh Thống thứ 5 (1502), hay sách Các nhà Khoa bảng Việt Nam (1075 – 1919) do PGS. TS Ngô Đức Thọ làm chủ biên, Nhà Xuất bản Văn học năm 2006, thì Nguyễn Bá Tùng, người làng Tạ Xá, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502) đời Lê Hiến Tông. Hay Nguyễn Duy Tinh, người làng Tạ Xá, huyện Tứ Kỳ đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Đại Chính thứ 6 (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh, làm quan tới chức Thừa Chính sứ. Đây là chức Trưởng quan, trật tòng Tam phẩm, tương đương với chức Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, hay thành phố thời nay. Vì thời gian lùi sâu quá xa, chúng tôi chưa xác định chính xác dòng tộc Nguyễn Bá và Nguyễn Duy nào ở Nội Tạ, Tạ Ngoại hay An Lãng xã Vĩnh Hòa thời nay là hậu duệ của hai nhà khoa bảng trên. Có một điều khẳng định chắc chắn rằng, những địa phương có Tiến sỹ Nho học, thì chắc chắn có Văn chỉ và Văn chỉ của Tạ Xá (làng Tè) nằm ở khu vực Trạm Y tế xã An Hòa thời nay.
Có một điều rất buồn là những nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa thời nay lại cho hai nhà khoa bảng trên ở nhiều nơi. Để minh chứng cho làng quê nơi đây có tên Hán Việt là Tạ Xá và tên Nôm là Tè, ngoài những tư liệu cổ, chúng tôi đã phải tới khá nhiều địa danh mang tên Tạ Xá khác nhau. Ví như làng Tạ Xá (tên Nôm là Tè), tổng Cao Đôi, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương, nay là thôn Tè, xã Hợp Tiến, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, đây là nơi thành lập Ban Tỉnh ủy Lâm thời tỉnh Hải Dương năm 1940; Làng Tạ Xá (tên Nôm là Tè), tổng Xích Bích, huyện Thần Khê, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam Hạ, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Làng Tạ Xá (tên Nôm là Tè), tổng Tạ Xá, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Thượng, nay thuộc xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.v.v. Và có thể khẳng định là những địa danh nào mang tên Nôm là Tè, thì tên Hán Việt là Tạ Xá.
Trong đó tại Bia đá Tiến sỹ Nho học tại Văn miếu Mao Điền của tỉnh Hải Dương dựng năm 2015 có danh sách đầy đủ toàn bộ các nhà khoa bảng là người quê trấn Hải Dương bằng tiếng Hán và tiếng Việt đã được Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phê chuẩn. Tại số thứ tự 221 Bia đá số IV có ghi: “Nguyễn Bá Tùng xã Tạ Xá, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, nay thuộc xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”. Còn ngày nay ở xóm Tường Vân, thôn Phương Tường, xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo có đền Thái giám thờ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) Nguyễn Bá Tùng (Tòng) khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502) đời Lê Hiến Tông. Thực tế xóm Tường Vân và xóm Phương Lâm xã Hùng Tiến ngày nay vào thời Lê Trịnh là giáp Cốc Thượng, xã Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng (nguồn theo Thiên đài Hưng Phúc tự, tức Trụ bia ngoài trời chùa Hưng Phúc thôn Áng Ngoại dựng năm 1701). Sau đó giáp Cốc Thượng đủ cơ số dân trở thành đơn vị hành chính cấp xã mang tên Tường Vân thuộc tổng Bắc Tạ, còn giáp Áng Ngoại tới đầu thế kỷ XX mới trở thành đơn vị hành chính cấp xã cũng thuộc tổng Bắc Tạ. Và tất cả các tài liệu cổ của Hải Dương cũ và quốc gia chỉ ghi tại xã Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ có duy nhất một Tiến sỹ Nho học là Phạm Tri Chỉ đỗ năm Sùng Khang thứ 3 (1568) đời vua Mạc Mậu Hợp.
Quê ông sao ở ba nơi
Chỗ ghi La Xá, chỗ thời Tường Vân
Làng Tè là chốn nương thân
Nỗi buồn dằng dặc đau rần rật đau?
Còn Tiến sỹ thứ hai năm Ất Mùi (1535) - Thừa Chính sứ Nguyễn Duy Tinh, người cùng làng với Hoàng giáp Nguyễn Bá Tùng, tức làng Tạ Xá (tên Nôm là Tè) huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, nay là thôn Tạ Ngoại, An Lãng và Nội Tạ, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Trong đó, Bia đá Tiến sỹ số VIII tại Văn Miếu Mao Điền lập năm 2015 với số thứ tự 337 ghi: “Nguyễn Duy Tinh, xã La Xá, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, nay thuộc xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương, đỗ đệ tam giáp khoa Ất Mùi, năm Đại Chính 6 (1535), làm quan tới Thừa Chính sứ”. Hay cũng tại Bia đá Tiến sỹ này với số thứ tự 396 ghi:“Nguyễn Duy Tinh, xã La Xá, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, nay thuộc xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương, đỗ đệ tam giáp khoa Nhâm Tuất (1562), năm Quang Bảo thứ 9… ”.
Nếu ở cùng một làng La Xá, tổng Ngọc Lâm, huyện Tứ Kỳ đã có Thừa Chính sứ đỗ Đại khoa năm Ất Mùi (1535) rồi, thì không bao giờ hậu duệ đời tiếp theo cùng họ Nguyễn lại dám đặt tên và tên đệm trùng với bậc cha chú thế hệ ngay trước đó. Còn trang 26 sách Lịch sử ĐB huyện Vĩnh Bảo xuất bản tại Hải Phòng, Nhà Xuất bản Hải Phòng quý III năm 2018 ghi: “Nguyễn Duy Tinh, người sở Tây Tạ, nay là thôn Thượng Đồng và Hạ Đồng xã An Hòa, Tiến sỹ khoa Ất Mùi (1535), từng đi sứ”.
Ông quê Tạ Xá chính tông
Bia chép La Xá lòng vòng xa sau
Sách ghi Tây Tạ bởi đâu
Một người ba chốn nhói đau buốt lòng?
Hay khi xem “Địa bạ cổ huyện Vĩnh Bảo” đến xứ Cửa Chùa (Nội Tạ) thấy thửa đất 0.8.00.00 do Nguyễn Duy Trọng bản xã phân canh, tức người địa phương sở hữu đất tư. Tôi thấy chi họ Nguyễn Duy này có liên quan gì tới Tiến sỹ Nho học Nguyễn Duy Tinh đỗ năm Đại Chính thứ 6 (1535) thời nhà Mạc hay không? Hay tại xã Trung Tạ (sau năm 1945 là Tạ Ngoại và An Lãng) tại xứ Rộc Chìm có thửa đất 1.3.00.00 do Nguyễn Bá Ngạn bản xã phân canh. Hay xứ Vườn Hồ thửa 0.5.00.00 do Nguyễn Bá Phương bản xã phân canh. Hay tại xứ Đồng Vỹ có thửa 0.8.00.00 do Nguyễn Bá Ngạn bản xã phân canh. Hay tại xứ Đồng Dược có thửa 1.0.00.0.0 do Nguyễn Bá Thọ bản xã phân canh. Hay tại xứ Dựng Quán thửa 2.0.00.0.0 do Nguyễn Bá Mẫn bản xã phân canh. Hay tại xứ Đồng Bái có thửa 0.6.11.0.0 do Nguyễn Bá Ngạn bản xã phân canh. Chi họ Nguyễn Bá này có liên quan gì tới Hoàng giáp Nguyễn Bá Tùng đỗ năm Cảnh Thống thứ 5 (1502) thời Lê sơ chăng?
Ngày tháng trôi nhanh, dân số nơi đây phát triển nhanh vì dịch vụ y tế và đời sống người dân phát triển. Lúc đầu làng chỉ bó gọn ở khu vực phía Tây (xóm Trong), sau phát triển về phía Đông Nam là xóm Giữa và sau cùng là xóm Ngoài. Hay theo “Hương ước xã Nội Tạ” viết năm 1936, thì xã Nội Tạ lúc này đã có lục giáp (sáu xóm). Hay ví như vào thời tôi còn ở quê, thì Nội Tạ mới có chừng trên một trăm hộ dân, các xứ phía Bắc, phía Đông và phía Nam giáp làng còn là ruộng đất canh tác, đến nay thì đã kín đầy các hộ dân ở. Hay khu vực đầm Bến, trước cửa nhà ông Chiểu, ông Tĩnh kéo xuôi xuống phía Đông hay ngược lên phía Tây còn là đầm lầy, lau lác um tùm, thì nay nhà cửa mọc lên chi chít.
Hay vào thời đó, thì khu vực gần chân đê sông Hóa đều là thùng vũng, chỉ thấy lau lác và tóc tiên, không thể cấy hái gì được. Rồi rất nhiều thùng vũng ở khắp đồng chiều, mà nay không còn. Chính vì thế mà tới những năm 60 của thế kỷ XX, thì 19 xứ trên nay một số đã đổi tên khác. Những cái tên của chiều dưới, đồng trên như: Đầm Bến, Ao Sa, Chái Cửa, Chái Quan, Chái Bầu, Chân Chùa, Đống Làn, Đống Trắng, Tám Mẫu, Gốc Sộp, Cao Thiên, Cầu Ván , Thầu Đâu, Đồng Bún, Đống Đồng Quân, Đồng Đanh, Thùng Sen, Thùng Ông Kênh, Cống Gạo, Cống Tè, Mả Thánh, Mả Vua, Đồng Rộc, Đống Cầu, Đống Củ, Đống Trúc, Đống Miễu, Đống Sừng, Đồng Cao, Đống Đồng Dung... còn đọng mãi trong tôi.
Thực địa của Nội Tạ được trải dài theo bên tả ngạn “Dòng Hóa Giang chở nặng phù sa” từ cống Gạo xã Hiệp Hòa đến gần cống Tè. Cứ mỗi lần làng mở cống lấy nước thì dòng “Phù sa nồng thơm tuổi học trò” lại cuồn cuộn đổ về khắp chiều dưới đồng trên. Rồi “Những buổi đong đêm bằng gầu tát nước” để cho “Đồng biếc xanh thì con gái”, thì muôn ký ức xưa lại lần lượt ùa về. Những giọt phù sa ấy đã nuôi dưỡng mảnh đất, con người nơi đây qua nhiều thế hệ, vì vậy có thể khảng định rằng Nội Tạ được hình thành bởi các trầm tích phù sa của sông Hóa thật hiền hòa và thơ mộng.
NGỌC TÔ
(Còn nữa)
Các tin khác
-
MỘT SỐ “SẠN” TRONG CÁC TÊN DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
-
LÀNG KÊNH HỮU - TỔNG BẮC TẠ - HUYỆN VĨNH BẢO
-
104 PHƯỜNG XÃ CỦA HUYỆN VĨNH BẢO ĐẦU THẾ KỶ XX
-
NGUỒN GỐC HỌ TÔ NỘI TẠ
-
“HÀ CẦU, HẠ HỒNG – SƠN ĐỒNG, QUỐC OAI”
-
NAM TƯỚNG LÊ CHÂN
-
SÔNG “KINH THẦY” CÓ TỪ BAO GIỜ?
-
ĐỒN SƠN CHU DU KÝ
-
CÁC BẾN ĐÒ NGANG - DỌC HUYỆN AN DƯƠNG CỔ
-
BẾN GÓT – CÁI VIỀNG HUYỆN CÁT HẢI (HẢI PHÒNG)