/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Văn xuôi

Nơi nước sâu nhất. Truyện ngắn của Claire Keegan

Rồi cô bế nó đi về phía ngôi nhà sáng đèn trên kia để trao cho mẹ nó.

Nơi nước sâu nhất. Truyện ngắn của Claire Keegan

Claire Keegan

.

       Claire Keegan sinh năm 1968 và lớn lên ở Wicklow, Ireland. Tuyển tập truyện ngắn đầu tay của bà, “Antarctica”, được hoàn thành vào năm 1998. Tác phẩm này đã khẳng định bà là một nhà văn đương đại đặc biệt tài năng và đa dạng, đồng thời giúp bà đoạt giải thưởng Văn học Rooney. Tuyển tập truyện ngắn thứ hai của bà, “Walk the Blue Fields” được xuất bản vào năm 2007 và nhận được nhiều ca ngợi từ giới phê bình, mang về cho bà giải thưởng Truyện ngắn Edge Hill năm 2008. Hiện Claire Keegan đang sống tại hạt Wexford, Ireland.

aa

Nơi nước sâu nhất. Truyện ngắn của Claire Keegan
Minh họa Đỗ Dũng

Cô gái au pair1 tối đó ngồi bên mép cầu ao câu cá. Bên cạnh cô là chút phô mai cô bòn được trong bát salad bữa tối và đôi xăng đan bằng da. Cô tháo dây buộc và rũ rũ mái tóc. Mùi bếp núc còn sót lại và hương xà phòng tắm từ căn nhà len lỏi qua những cái cây và trôi tận xuống đây. Cô móc cục phô mai vào lưỡi câu rồi quăng. Cô quăng khá. Dây câu lượn một đường vòng cung trong không, rơi tọt xuống rồi biến mất. Chầm chậm, cô quay cần kéo nó về phía mình, nơi nước sâu nhất. Cô đã từng tóm được một con rô không tồi nhờ làm thế.

Dạo gần đây cô ngủ không ngon, thường thức giấc vì cùng một giấc mơ. Cô và cậu bé đang trong sân vào buổi tối. Gió thổi trương quần áo trên dây phơi và những cái cây đen nhờ đang đu đưa nhau trên đầu. Thế rồi mặt đất rung chuyển. Những vì sao rụng xuống nẩy lên quanh bọn họ như những đồng xu. Mái nhà kho run rẩy, rồi tung lên như một chiếc lá khổng lồ bằng kim loại, cào xào xạo vào những đám mây. Mặt đất nứt toác và thằng bé đứng chơ vơ ở phía bên kia.

“Nhảy đi! Nhảy đi, cô sẽ đỡ cháu!” Cô kêu lên.

Thằng bé đang mỉm cười. Nó tin cô.

“Nào!” Cô dang tay ra. “Nhảy đi! Dễ ợt mà!”

Thằng bé chạy thật nhanh và nhảy. Bàn chân nó đã vượt qua khe đất, nhưng rồi đã xảy ra một chuyện lạ lùng nhất: bàn tay cô tan ra còn thằng bé thì bị rơi ngược trở lại vào trong bóng đêm. Cô gái au pair chỉ biết đứng bên mép vực và nhìn nó rơi xuống.

Có đêm, cô mơ thấy chuyện ấy hai lần liền. Tối qua cô ngồi dậy và vào phòng tắm làm một điếu thuốc trong lúc ngắm nhìn vầng trăng. Ánh trăng trượt qua mấy vòi nước mạ vàng, chúi xuống cái bồn sứ, hẩy ra một vùng bóng đổ. Cô đánh răng rồi về lại giường.

*

Buổi chiều, hai cô cháu đào giun và đem theo đồ câu xuống bờ hồ. Cô gái au pair lật cái thuyền lên và đun nó xuống nước, giữ nó bớt chòng chành để cậu bé leo lên. “Đi nào!” Cô nói và chèo thuyền ra khỏi vùng bóng râm của cái cầu ao đua ra hồ. Cậu bé đội chiếc mũ bóng chày đội Salt Lake City mà cha cậu đã mua về sau một chuyến công tác. Khắp mũi cậu đã nổi chi chít tàn nhang, đầu gối đã bong vảy. Bàn tay cậu đung đưa bên thành thuyền và rẽ đôi mặt nước khi cô bắt đầu chèo. Rồi cô ẩy những mái chèo lên để chúng ráo nước, vừa hay muỗi đã quây lại thành một đám con con quanh thuyền.

“Ở Reef2 có bọ không?” Cậu bé hỏi.

Giọng cô gái au pair khác hẳn khi cô nói về quê nhà. Như thể bàn tay cô giơ ra là xuyên qua được quá khứ và chạm vào nó. Cô móc mồi câu cho cậu bé, kể cho cậu nghe cô đã học lặn sâu và vừa lặn nông vừa cầm một ngọn giáo như thế nào, đã khám phá ra cả một thế giới bí ẩn dưới lòng đại dương. Những ngọn núi khổng lồ nơi cá bơi từng đàn và cùng đổi hướng liền một nháy mắt. Rong biển cuộn tròn. Một con rùa có những xoáy lớn trên mai bơi qua. Cá ngựa.

“Cháu muốn lặn ở đây.” Cậu bé nói.

“Không được đâu, cưng. Hồ này của cháu tối và nhiều bùn quá. Đáy hồ thì chẳng có cát như ở đại dương, nó chỉ bùn là bùn thôi. Bùn sâu tới hơn hai người lớn chồng lên nhau. Lặn nguy hiểm lắm.”

Cậu bé im lặng một lúc lâu. Những con ngựa giống quarter đang hí vang trên đồng cỏ và phi nước kiệu trên đồi, phì mũi rồi dừng chân bên mép nước.

“Mình chơi ‘Giống như thể’ đi?” Cô nói và đập một con bọ trên cánh tay.

Cậu bé nhún vai. “Chơi thì chơi.”

Cô đi trước: “Con thuyền này giống như thể một nửa hạt dẻ Brazil khổng lồ.”

“Đầu cô giống như thể một cây bắp cải.”

“Lông mi của cháu là màu của bờm Palomino.”

“Là cái gì?” Cậu bé hỏi.

“Là một con ngựa. Lúc nào cô sẽ cho cháu xem ảnh của nó.”

“Cháu có mắt giống một con ngựa sao?”

“Đến lượt cháu.”

“Rắm của cô giống như đậu nướng.”

“Rắm của cháu giống như một sự im lặng chết chóc.” Cô nói.

“Cô giống như một người mẹ.” Cậu bé nói và nhìn sâu vào mắt cô.

“Nhắc đến mẹ - cô nói - mẹ cháu chắc sắp về rồi. Chúng mình về đi thôi.” Cô nắm chắc tay chèo và chèo thuyền vào bờ.

*

Sắp đến lễ Phục sinh. Trước bữa tối, hai cô cháu ngồi trên những tấm thảm trong phòng sinh hoạt chung và làm những tấm thiệp bằng những tờ giấy cứng đắt đỏ mà mẹ cậu bé đã mua ở trung tâm, rồi gọi nhau là cộng sự: “Mừng lễ Phục sinh, cộng sự. Ăn thật nhiều trứng vào nhé.” Tấm thiệp của cậu viết như vậy. Cô cầm tay cậu, viết các chữ cái cho cậu, nhưng cậu bảo cô phải viết cái gì. Cậu tự viết các chữ X ở dưới cuối thiệp. Mặt trước, cậu vẽ bằng bút chì màu hai hình người que và tô nền màu nâu.

“Cái gì đấy?” Bố cậu hỏi. Một người đàn ông to lớn tóc đỏ, gốc gác Ireland và đôi mắt màu xanh dương sắc lạnh. Ông ta đang hút một điếu xì gà, xem CNN và chân gác lên bàn.

“Những thợ lặn.” Cậu bé nói.

“Thế à.” Bố cậu mỉm cười. “Đến đây, con trai.”

Cậu bé đứng dậy và trèo vào lòng bố.

“Cô đi nghỉ đi!” Người đàn ông nói với cô gái au pair.

Cô đứng lên. Cô đi qua mấy cái đĩa trong bồn bếp, bước vào màn đêm và đóng cửa lại.

*

Phía dưới hồ, cô gái au pair nghe thấy tiếng xả bồn cầu, rồi tiếng nước nhà tắm xì xoẹt chảy trong ống. Giờ đi ngủ. Mẹ cậu bé, một người phụ nữ cao, tóc vàng và đôi gò má cao đang điều hành một công ty bất động sản trong trung tâm thành phố, luôn là người đưa cậu vào giường. Thoả thuận là như thế. Mẹ sẽ tắm cho cậu bé, đọc truyện Những quả trứng xanh và thịt nguội hoặc Ở nơi quỷ sứ giặc non. Cô ấy là người học cao. Đôi khi cô còn đọc những bài thơ của Robert Frost trong một cuốn sách và bật nhạc Mozart trên đĩa hát. Lát nữa, cô gái au pair sẽ bước vào để xem cậu bé có còn thức hay không, sẽ thơm cậu một cái chúc ngủ ngon.

*

Mùa đông năm ngoái, họ bay ba tiếng đồng hồ về phương Bắc để tới thành phố New York cho một kì nghỉ cuối tuần dài ngày. Họ thuê một phòng hạng sang trong một khách sạn mười chín tầng có ban công nhỏ nhìn ra khung cảnh Manhattan. Tối hôm đó, mẹ cậu bé diện một chiếc đầm lụa mềm mại và mặc một chiếc áo khoác lông chồn, quàng tay chồng và rồi họ ra ngoài ăn tối. Cô gái au pair đặt một chiếc pizza nấm và vài lon Coca-Cola từ dịch vụ phòng, chơi trò trốn rắn leo thang với cậu bé. Cậu bé thảy con xúc xắc và rồi họ leo và bò trườn hết lên lại xuống tấm bảng trò chơi cho đến tận giờ đi ngủ. Cô gái au pair đứng lên, đi tắm nước nóng và quấn mình trong chiếc áo choàng tắm bông có huy hiệu khách sạn dập ở mép. Cô mở cửa ban công và từ chiếc ghế bành cô ngắm nhìn đường chân trời thành phố, chiều đã loang dần vào đêm sau những toà nhà cao nhất, nhưng cô không dám bước ra và nhìn xuống. Thay vào đó, cô viết thư về nhà, nói rằng có lẽ dịp Giáng sinh cô cũng không về được nốt, rằng cô rất nhớ đại dương nhưng ở đây họ đối tốt với cô, cô chẳng muốn gì cả.

Mãi khuya họ mới trở về. Cô ngủ quên trên ghế nhưng tỉnh dậy vì nghe thấy tiếng họ nói chuyện trong phòng ngủ. Rồi tiếng nói chuyện dừng lại và người đàn ông bước ra ngoài ban công. Khói xì gà và không khí giá lạnh đang trôi giật về phía phòng. Ông ta khoá chặt cửa ban công và quay vào trong, ngồi trên mép ghế xô pha đưa mắt nhìn cô gái. Ông ta có mùi bia và mùi kem Polo dùng sau khi cạo, cô gái au pair cảm thấy cái giá lạnh toát ra từ bộ vest len thượng hạng của ông ta.

“Cô biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi mất con, đúng không?” Ông ta nói. “Đứa trẻ mà mất thì người trông trẻ cũng mất theo. Cô phải luôn khoá cửa ban công, cô gái thân mến, nếu không thì cô sẽ phải bắt chuyến bay đầu tiên về nhà.” Rồi ông ta hôn cô, một nụ hôn lạ lùng, thận trọng, một nụ hôn chia tay trên sân bay cho cái người mà ta cảm thấy nhẹ lòng khi tạm biệt, rồi ông ta đứng dậy và trở vào với vợ.

Nghe thấy tiếng ông ta ngáy rồi cô mới ngồi dậy và bước ra ngoài ban công. Một làn gió lả lướt đang đẩy những bông tuyết lớn trong không trung, luyện quyện thành cuộn. Một đêm đốm tuyết tháng cuối năm với tiếng còi xe inh ỏi. Rồi sẽ sớm đến Giáng sinh. Cô nắm chặt lan can và nhìn xuống. Đám taxi màu vàng cắm cảu cụm lại thành nùi với nhau ở những giao lộ bên dưới. Cô hít một hơi vào lồng ngực. Cô nhớ đã đọc đâu đó rằng nỗi sợ độ cao chẳng qua là tấm mặt nạ che đậy thôi thúc được rơi. Đột nhiên, chuyện đó khiến cô cảm thấy kinh hãi khôn cùng. Nếu không nghĩ đến chuyện nhảy xuống thì cô cũng chẳng ngại gì mà không đứng ở mép ban công. Cô hình dung mình đang rơi xuống, hình dung cảm giác sẽ như thế nào, khi lao xuống như thế, mất hút đi, tất cả thu về trong vài khắc, rồi biệt dạng. Cô trở vào trong và chốt cửa lại.

Buổi sáng hôm sau, họ định đến cửa hàng đồ chơi F.A.O. Schwarz. Ở sảnh, cô gái au pair viết tên cậu bé và số phòng lên một mẩu giấy rồi ghim nó vào bên trong túi quần của cậu.

“Nếu cháu bị lạc thì đưa cho người cảnh sát tốt bụng cái này nhé.”

“Nhưng cháu sẽ không bị lạc!” Thằng bé nói.

“Tất nhiên rồi.”

*

Lúc này dưới hồ trời đã tối. Cô gái au pair cảm thấy trong đám cây ở bờ xa xa kia có vật gì đó chuyển động. Vẫn có lợn rừng lang thang trên những cánh đồng này. Có lần cha thằng bé đã bẫy được một con, ông ta thuê một người đàn ông làm thịt con vật và lèn chặt cứng tủ đông lạnh. Quăng câu thêm mươi lần nữa rồi cô sẽ đi ngủ. Dù sao thì miếng phô mai cũng gần hết rồi. Cô lắng nghe tiếng ếch ộp ộp và chẳng hiểu sao lại nhớ đến tiếng lạch tạch của hàng rào điện ở quê nhà. Cha cô đã dạy là không bao giờ được chạm vào nó bằng lòng bàn tay, lúc nào cũng phải là mu bàn tay; làm thế thì phản xạ là giật ra, chứ không nắm lấy nó nếu vẫn còn dòng điện. Những điều nhỏ nhặt như thế, theo như cô thấy, là việc của những ông bố. Những mẹo thực tế. Như cột dây giày và khoá đai an toàn. Cô quay dây câu về và kiểm tra mồi, quăng lần nữa. Mồi câu rơi tõm, nhưng cô không còn dõi tìm dây câu trên nền trời đêm nữa.

Chẳng ai thấy thằng bé ra khỏi nhà. Nó lẻn xuống các bậc ở đằng sau nhà nhưng không bám lấy tay vịn như người lớn vẫn dặn dò. Chẳng hề gì khi đôi mắt nó chưa làm quen được với đêm tối, nó biết con dốc có cỏ mọc kia sẽ dẫn xuống dưới hồ. Nó có thể nhìn thấy bóng áo nhờ nhờ của cô, thấy tay áo vung lên, thấy khuỷu tay giật lại sau rồi văng. Thằng bé chạy mặc dù nó được dặn là không bao giờ chạy tới gần vùng nước. Những tiếng hổn hển nho nhỏ, nghe như âm thanh mà con búp bê của cô em họ khi nó lật đi lật lại, đang phát ra từ lồng ngực nó. Cô gái au pair lưng quay về phía nó. Thằng bé đi không tiếng động, nó lặng lẽ như một con báo trên đám cỏ mềm.

Cô gái au pair chẳng hề quay đầu, mãi cho đến khi bàn chân thằng bé đặt lên tấm ván lát đầu tiên của cầu ao.

“Hù! Đố bắt được cháu! Đố bắt được cháu!” Thằng bé hét lên.

Nó chạy, rất nhanh. Cần câu rơi ra khỏi tay cô. Chân thằng bé vấp phải cái gì đó và rồi như thể nó đã đi một quãng dài, rất dài. Cô gái au pair loạng choạng cố vừa đứng dậy vừa quay lại cùng lúc. Thằng bé cảm thấy một cơn ớn lạnh. Đột nhiên bàn tay cô ở đó, bọc lấy nó như thể nó biết là thế nào chúng cũng sẽ ở đó. Nó ngã phịch xuống và rúc rích cười trên vai cô. “Ngạc nhiên chưa!” Thằng bé reo lên.

Nhưng cô không cười.

Thằng bé câm bặt. Trượt ra khỏi đôi vai cô, thằng bé biết đó là nguy hiểm. Trượt ra khỏi cô, sẽ chẳng còn gì. Chỉ có dòng nước đen ngòm thăm thẳm và bên dưới đó là cả một thế giới bùn nhão, như nhung. Bùn sâu hơn cả hai người đàn ông lớn chồng lên nhau.

“Ôi, cháu tôi.” Cô gái au pair thì thầm. “Cô đây, cô đây.” Cô đung đưa nó và nó ngả đầu trên vai cô lâu rất lâu, cảm giác lồng ngực cô nhấp nhô lên xuống. Cô thơm lên mái tóc tơ của nó, đôi hàng lông mi của nó lạo xạo vào xương đòn gánh của cô. Cô gái au pair ôm nó cho đến tận khi tim họ đập chậm dần và có tiếng một người phụ nữ gọi tên thằng bé. Rồi cô bế nó đi về phía ngôi nhà sáng đèn trên kia để trao cho mẹ nó.

Quế Chi

Dịch từ nguyên bản tiếng Anh

---------------------

1. Chương trình au pair là một hình thức trao đổi văn hóa quốc tế. Một bạn trẻ (thường 18-30 tuổi) sẽ sang sống cùng một gia đình nước ngoài, được cung cấp ăn ở miễn phí và một khoản tiền tiêu vặt, đổi lại sẽ giúp gia đình chăm sóc trẻ em và làm một số việc nhà nhẹ.

2. Great Barrier Reef: Bãi San hô lớn, ở Úc.

Nguồn theo Baovannghe