VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
TÔ NGỌC THẠCH
SÔNG ĐUỐNG DO TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM ĐẶT TÊN
Ngày nay khi nhắc tới Lục Đầu giang (六頭江), tức sông Lục Đầu, hay sông Sáu Đầu, trong đó có một nhánh từ phía Bắc xuống ai cũng biết là sông Đuống.SÔNG ĐUỐNG DO TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM ĐẶT TÊN
.
Ngày nay khi nhắc tới Lục Đầu giang (六頭江), tức sông Lục Đầu, hay sông Sáu Đầu, trong đó có một nhánh từ phía Bắc xuống đó là sông Đuống. Rất nhiều người hỏi tôi, con sông khá nổi tiếng này có liên quan gì tới Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong tập “Hải Phòng – Những trầm tích thời gian” tôi đã nêu khá kỹ hai con sông có liên quan tới Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là sông Hàn ở hạ lưu sông Kim (từ 1890 là sông Thái Bình) và sông Hàm ở huyện Chí Linh qua thành phố Hải Dương thời nay được gọi theo tên của Trạng Trình ở phía hạ lưu sông Kim là sông Hàn. Rồi nay là con sông lớn thứ ba do Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt tên, lúc Người đang công tác tại Thăng Long.
Trong thời gian Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan dưới triều Mạc (1535 - 1542). Tục truyền, vào thời kỳ này, ông thường đi thăm thú vùng ngoại thành phía Bắc Thăng Long tại ven sông Thiên Đức. Thấy đất đai nơi đây màu mỡ, phong cảnh hữu tình, cũng giống như ấp Trình Tuyền ở quê, ông liền làm ngôi nhà tre ở ngoại ô ven sông này do Từ Ý phu nhân họ Dương trông nom để nghỉ ngơi cũng như tiếp bạn văn chương. Sau đó ông bà đưa nhiều họ hàng, người thân và dân làng nội ngoại từ Trung Am và Hà Dương, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng lên đây lập nghiệp, cũng như giúp người dân nơi đây phát triển nông trang, ổn định cuộc sống.
Sau gần tám năm làm quan ở kinh thành cho nhà Mạc, vì lý do tế nhị Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm xin từ quan về ở ẩn tại ngôi nhà ven sông của mình để nghỉ ngơi và sáng tác thơ văn. Ông là người sớm nhận ra vẻ đẹp cũng như giá trị của vùng đất màu mỡ bên bờ Nam sông Thiên Đức này và đặt tên là Hoa Am cho ngôi làng vào thời gian mười tám Am tại lục tổng khu dưới Vĩnh Bảo (Hải Phòng) ra đời. Sau khi ông mất được thôn dân Hoa Am lập đền thờ và vinh danh ông là Phúc thần.
.
Sông Đuống thời nay
Thời đầu Nguyễn, làng Hoa Am thuộc tổng Đặng Xá (đầu Nguyễn tổng này gồm 11 xã, thôn, sở là: Đặng Xá, Cổ Bi, thôn Đông xã Nông Vụ, Nông Vụ (2 thôn Thượng và Trung), thôn Vụ Đồng thuộc sở Đông Lâm, thôn Cự Đồng thuộc sở Đông Lâm, Tinh Quang, Quan Tinh, Hộ Xá, Tiểu Hoa Lâm và Hoa Am), huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc (từ năm Minh Mạng thứ 12 - 1831 về sau là tỉnh Bắc Ninh). Khi vua Thiệu Trị lên ngôi (năm Tân Sửu, 1841), vì kỵ húy bà Hồ Thị Hoa (mẹ vua Thiệu Trị, vợ vua Minh Mạng) nên tên Hoa Am đổi thành Thanh Am (清庵). Làng này có tên Nôm là Đuống, nay phần lớn đất đai thuộc tổ Hai Mươi Tư, phường Thượng Thanh, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Thôn dân làng Đuống từ đó tới nay vẫn coi mình là Am thứ Mười Chín của lục tổng khu dưới huyện Vĩnh Bảo. Với việc thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng với hai vị tướng là vợ chồng Phúc thần Đào Kỳ và Phương Dung thời Hai Bà Trưng, đình làng Thanh Am được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia vào năm 1990.
Ngôi làng Hoa Am này, tên Nôm là Đuống do Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng lập cách nay gần 500 năm nằm ở sát bên tả ngạn sông Thiên Đức. Nếu tính từ thực địa làng này tới ngã ba sông Nhị (từ 1890 là sông Hồng) cũng vào chừng 6 dặm (1 dặm bằng 444,47 mét). Có điều đặc biệt là thời phong kiến Việt Nam đã lấy tên Nôm của ngôi làng này làm tên cho sông.
Còn nhớ, cách nay tròn 20 năm (2005) khi tới dự Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII tại Hội trường Ba Đình, thì tôi có gặp thi sỹ Hoàng Cầm ngồi trên xe lăn nhưng nét mặt khá vui vẻ. Tôi nói, bài thơ “Bên kia sông Đuống” của bác khá nổi tiếng, nhưng thi sỹ có biết tại sao con sông ấy lại mang tên Đuống không? Thi sỹ Hoàng Cầm lắc đầu và nhờ tôi giải thích giúp, nhưng ông vẫn ngân nga đọc:
Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ...
Thế rồi tôi liền giải thích cho ông về cái tên sông Đuống. Theo Hán tự là Thiên Đức giang (天德江), tức sông Thiên Đức cả trong văn viết lẫn văn nói. Từ cuối thời Mạc (1527 – 1592) trở đi, thì cái tên sông Đuống được dùng trong văn nói. Từ thời cách mạng (sau 1945), thì sông Đuống được dùng trong cả trong văn viết lẫn văn nói với chiều dài gần 70 cây số kéo dài qua nhiều tỉnh thành từ Bắc xuống Nam. Đây là con sông lớn nối từ sông Nhị (từ 1890 là sông Hồng) vào sông Lục Đầu (từ 1890 là sông Thái Bình). Nó còn là con đường giao thông thủy nối cảng Hải Phòng với Hà Nội.
Tôi đùa với thi sỹ Hoàng Cầm là cuối năm nay bác về đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Bảo thắp hương, thì năm tới thế nào bác cũng giành Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Thế rồi vào ngày 28 tháng 11 âm năm 2005, mấy nhà văn gồm Trung Trung Đỉnh, Thi Hoàng, Y Phương… Còn thi sỹ Hoàng Cầm yếu quá không về được, nhờ mấy nhà văn trẻ hơn về Vĩnh bảo thắp hương cho cụ Trạng và năm sau tất cả mấy nhà văn đều giành Giải thưởng. Đặc biệt thi sỹ Hoàng Cầm được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký Quyết định tặng riêng cho ông... Một điều khá bất ngờ?
.
NGỌC TÔ
Các tin khác
-
THÁI BÌNH GIANG (太平江), TỨC SÔNG THÁI BÌNH
-
LỤC ĐẦU GIANG (六頭江), TỨC SÔNG LỤC ĐẦU
-
SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG
-
XANH BẾN NGHIÊU PHONG
-
ĐẤT CẢNG HẢI PHÒNG
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
TẠI SAO LÀNG CAN TRÌ LẠI ĐỔI THÀNH HU TRÌ?
-
ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?
-
SÔNG BẠCH ĐẰNG CÒN GỌI LÀ SÔNG RỪNG (DẦNG)?