/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

TÔ NGỌC THẠCH

CỬA BỂ BÀNG HAY ĐẠI BÀNG Ở ĐÂU?

Về sau gọi địa danh bằng hai từ thì sông Bàng được gọi là sông Đại Bàng.

CỬA BỂ BÀNG HAY ĐẠI BÀNG Ở ĐÂU?

.

       Trước hết ta phải xác định rằng: Sông nhỏ đổ ra sông lớn thì gọi là cửa sông, còn sông đổ ra bể (biển) thì mới gọi là cửa bể. Ví như: Sông Ruột Lợn đổ ra sông Nam Triệu thì gọi là cửa sông Nam Triệu, hay sông Nam Triệu đổ ra bể thì gọi là cửa bể Nam Triệu, hay sông Lạch Tray đổ ra bể thì gọi là cửa bể Lạch Tray, hay sông Do đổ ra bể thì gọi là cửa bể Do, hay sông Thái Bình đổ ra bể, thì gọi là cửa bể Thái Bình,v.v. Còn cửa bể Bàng hay Đại Bàng thì chắc chắn phải tìm được sông Bàng mới biết được vị trí cửa bể Bàng, hay Đại Bàng nằm ở đâu. Các cửa bể khác ít người quan tâm, còn Bàng Hải Khẩu, tức cửa bể Bàng tại sao lại có nhiều người quan tâm?

       Vì nó liên quan tới cuộc kháng chiến quân Nguyên Mông lần III (1287 - 1288), trong đó trang 383 sách “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Tháng 3 ngày Giáp Tuất mùng 1, hai vua bỏ thuyền đi bộ đến xã Thủy Chú, lấy thuyền ra sông Nam Triệu (tức huyện Thủy Đường), qua biển Đại Bàng vào Thanh Hóa…”. Bên dưới cùng trang là phần chú thích của người dịch: “Xã Thủy Chú, theo đại thế mà suy thì Thủy Chú phải ở Yên Hưng, hoặc giả là ở vào huyện lỵ Yên Hưng ngày nay là nơi rất nhiều dòng nước đổ về (Thủy chú, nghĩa là nước đổ về). Hay “Thuyền hai vua ra sông Nam Triệu mà qua biển Đại Bàng, không thấy nói là sông Bạch Đằng, điều này tỏ rằng sông Bạch Đằng bấy giờ không ở về phía cửa Nam Triệu như ngày nay”.

       Khi đọc hết mấy dòng trên, tôi có thể giải thích cho bạn đọc rõ ngay. Các địa danh trên cách nay 737 năm nó không thể giữ nguyên như cũ, hay bản dịch từ tiếng Hán ra tiếng Việt chưa chắc đã chuẩn. Ba từ Nam Triệu Giang (南趙江), có nghĩa là sông Nam Triệu và một ngữ nghĩa nữa là giang Nam Triệu. Từ giang ở đây là đơn vị hành chính cấp quận thời cổ (từ thời Trần (1400) trở về trước) bao gồm diện tích của huyện Thủy Nguyên và một phần An Dương, Kim Thành, Kinh Môn ngày nay. Hoặc trái lại người dịch vẫn khẳng định dịch sông Nam Triệu là đúng, thì sông Nam Triệu cách nay 737 năm nó ở vị trí khác, vì sông Nam Triệu thời nay là đoạn nối tiếp với sông Bạch Đằng ra biển, nó mới có vào cuối thời Lê – Trịnh (1592 - 1788), chứ vào thế kỷ XIII thì cửa biển còn ở khu vực Nhà máy Xi măng Chinh Phong ngày nay, cách cửa biển thời nay hơn chục cây số về phía biển. Hay làng (xã) Thủy Chú thời cổ, sau này là làng Yên Thủy thuộc huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, nay thuộc huyện Kinh Môn, nơi ngã ba sông (Kinh Thầy, Kinh Môn và Kiền Bái, sau là Cấm), chứ không phải nằm ở huyện Yên Hưng, Quảng Ninh.

       Trong đó những người viết sách cho Hải Phòng ở trang 113 “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” NXB Hải Phòng năm 1998 ghi như sau: “Cửa biển cổ Đại Bàng, nay thuộc xã Bàng La, thị xã Đồ Sơn đã bị bồi cạn, chỉ còn một lạch rất nhỏ giáp giới với thôn Tiểu Bàng (thuộc làng Đại Bàng cũ), xã Bàng La và thôn Quần Mục, xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy. Đầu thế kỷ XX thuyền bè lớn còn qua lại dễ dàng ở cửa này. Cửa Đại Bàng ở giữa cửa Văn Úc và cửa Họng (có tài liệu ghi chú cửa Đại Bàng là cửa Văn Úc)…”. Và từ đó tới nay có rất nhiều sách sử đã xuất bản đều ghi bể Bàng hay cửa Đại Bàng ở tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương, nay là phường Đồ Sơn thành phố Hải Phòng. Chúng tôi đã tra tất cả các sách địa chí từ thời Hậu Lê tới năm 1945 không có làng Đại Bàng nào cả. Và giả sử nếu có thì cửa biển đó thời phong kiến cũng không thể mang tên Đại Bàng được? 

          Theo cách đặt tên truyền thống của ông cha ta thời phong kiến (trước thời Thành Thái), thì địa danh phía thượng lưu thường được lấy làm tên cho sông, ví như: Nhĩ Hà, vì từ Nhĩ có thể đọc thành Nhị, nên còn gọi là Nhị Hà, nó được bắt nguồn từ làng Nhĩ ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, sau này là Hồng Hà; Hay Tranh Xuyên, tức sông Tranh là khúc sông nối với sông Luộc làm ranh giới cho Thái Bình và Hải Phòng bắt đầu từ làng Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại (sau này là huyện Ninh Giang); Hay sông Cấm là khúc sông từ giáp Cấm làng Liễu Viên tổng Liễu Viên, cuối thế kỷ XVII đổi thành Da Viên, tổng Da Viên, huyện An Dương, thời nay là phường Minh Khai, quận Hồng Bàng hắt xuống biển với chiều dài chừng dăm cây số; Hay sông Nam Triệu là từ thực địa giáp Vũ Yên thuộc làng Nam Triệu, tổng Thủy Đường, huyện Thủy Đường hắt xuống phía biển với độ dài chừng vài cây số; Hay sông Do, tức từ làng Do (tên Hán Việt là Định Vũ, gọi chệch là Đình Vũ), tổng Hạ Đoàn, huyện An Dương, thời nay là phường Đông Hải II (sông này bị lấp khi thành phố làm đập Đình Vũ năm 1990); Hay sông Lạch Tray bắt nguồn từ lạch Tray làng Vĩnh Niệm cổ, tổng Da Viên, huyện An Dương, thời nay thuộc xã An Đồng huyện An Dương.v.v

       Đến thời Pháp thuộc (1890) thì việc đặt tên sông ngược với thời phong kiến, nghĩa là lấy địa danh phía hạ lưu làm tên cho sông. Ví như: Sông Thái Bình là lấy tên phân phủ Thái Bình làm tên cho sông, mặc dù đoạn hạ lưu chảy qua phủ Thái Bình có dăm cây số; Hay Sông Hóa là lấy bến Hóa ở hạ lưu bên tả ngạn sông (khu vực xã Cổ Am) làm tên cho sông; Hay sông Cấm cổ có chừng 6 cây số, nhưng sông Cấm sau năm 1890 bằng sông Cấm cổ và sông Kiền Bái cộng lại với độ dài chừng 35 cây số; Hay sông Lạch Tray sau năm 1890 là sông Lạch Tray cổ và sông Nại cộng lại với độ dài trên 40 cây số.v.v. Chúng tôi nêu ra ví dụ trên để ta tìm ra sông Bàng. Rồi mấy năm nay chúng tôi chuẩn bị xuất bản cuốn “Ca dao tục ngữ, thành ngữ cổ xứ Đông” cho 17 huyện cổ của xứ Đông và huyện Nghiêu Phong của trấn Yên Quảng. Khi tìm tới huyện Tiên Minh (thời nay là Tiên Lãng) và Nghi Dương (thời nay là Kiến Thụy) chúng tôi đã tìm được hai câu thành ngữ cổ ghi ở sách quốc gia thời Nguyễn như sau:

          1-

Sóng kêu bể Cồn đổ thóc vào rang

Sóng kêu bể Bàng đổ thóc ra phơi

       (Đây là câu thành ngữ cổ của huyện Nghi Dương về dự báo thời tiết. Bể Cồn thuộc hải phận làng (xã) Quần Mục, tên Nôm là Cồn, xưa thuộc tổng Thiên Lộc (thời Tự Đức đổi thành Đại Lộc), huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, thời nay thuộc xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Còn theo cách đặt tên truyền thống về sông ngòi của cha ông ta thời phong kiến (từ thời Thành Thái về trước), thì Bàng Hà (旁河), tức sông Bàng chảy ra cửa bể Bàng. Trong đó, huyện Bàng Hà cổ đến cuối năm Quang Thuận thứ 10 (1469) được chia thành hai huyện, lấy sông Mía làm ranh giới, nửa phía trên mang tên Bàng Hà, đến thời Mạc đổi thành Thanh Hà. Còn nửa phía dưới huyện mang tên Tân Lục Minh, gọi tắt là Tân Minh, vào năm 1600 đổi thành Tiên Minh và vào thời Hàm Nghi (1885) đổi thành Tiên Lãng. Con sông chảy từ làng Cập Nhất, tổng Cập Nhất huyện Bàng Hà cổ chảy xuống ngã ba Quý Cao rồi tiếp tục làm ranh giới cho phủ Hạ Hồng (Tứ Kỳ - Vĩnh Lại) và phủ Nam Sách (Tân Minh) tiếp tục chảy ra cửa biển thời cổ mang tên Bàng Hà, tức sông Bàng. Khi huyện Tân Minh được thành lập, người ta không muốn gọi tên sông là Bàng Hà nữa đã đổi đoạn hạ lưu chảy qua Tân Minh thành sông Kim và từ năm 1891 là Thái Bình. Như vậy cửa bể Bàng là cửa biển Thái Bình sau này, nhưng thời Lê – Mạc thì cửa biển còn ở khúc trên, nay thuộc xã Tiên Minh. Hay các sách đã xuất bản, cũng như các thần tích của các di tích ở huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình đều ghi cửa bể Đại Bàng thuộc huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình. Thời nay nhiều nhà sử học và một số sách chính thống đã xuất bản tại Hải Phòng khẳng định cửa bể Đại Bàng ở xã Bàng La (Đồ Sơn) là hoàn toàn chưa có căn cứ. Hay trang 143 sách “Đồng Khánh địa dư chí” ghi: “Hải triều lên xuống mỗi tháng hai kỳ. Dân địa phương thường quen nghe tiếng sóng động mà dự đoán trời ráo hay mưa: Tiếng sóng động kêu phía hải phận làng Quần Mục thì trời mưa; Tiếng sóng kêu phía cửa Đại Bàng (phía hải phận huyện Thụy Anh) thì trời tạnh ráo”. Nếu ta đứng ở huyện Nghi Dương nhìn về làng Quần Mục là hướng Đông, còn nhìn về phía huyện Thụy Anh là hướng Nam. Do vậy câu thành ngữ trên giống như câu: “Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy. Cơn đằng Nam vừa làm vừa chơi”)

          2-

Động bể Xuân Úc xúc thóc ra phơi

Động bể Đại Bàng đổ thóc vào rang

       (Đây là câu ca về dự báo thời tiết của huyện Tân Lục Minh, sau đổi thành Tiên Minh và thời nay là Tiên Lãng. Cửa biển Xuân Úc cổ, gọi tắt là Úc, từ năm 1890 trở lại nay là cửa biển Văn Úc, thời nay là ranh giới giữa hai huyện Tiên Lãng và Kiến Thụy – Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng. Thời ấy cửa biển còn ở khúc trên, nay là khu vực xã Hùng Thắng huyện Tiên Lãng. Còn theo cách đặt tên truyền thống về sông ngòi của cha ông ta thời phong kiến (từ thời Thành Thái về trước), thì Bàng Hà (旁河), tức sông Bàng chảy ra cửa bể Bàng. Trong đó, huyện Bàng Hà cổ đến cuối năm Quang Thuận thứ 10 (1469) được chia thành hai huyện, lấy sông Mía làm ranh giới, nửa phía trên mang tên Bàng Hà, đến thời Mạc đổi thành Thanh Hà. Còn nửa phía dưới huyện mang tên Tân Lục Minh, gọi tắt là Tân Minh, vào năm 1600 đổi thành Tiên Minh và vào thời Hàm Nghi (1885) đổi thành Tiên Lãng. Con sông chảy từ làng Cập Nhất, tổng Cập Nhất huyện Bàng Hà cổ chảy xuống ngã ba Quý Cao rồi tiếp tục làm ranh giới cho phủ Hạ Hồng (Tứ Kỳ - Vĩnh Lại) và phủ Nam Sách (Tân Minh) và chảy ra cửa biển mang tên Bàng Hà, tức sông Bàng.

       Khi huyện Tân Minh được thành lập, người ta không muốn gọi tên sông là Bàng Hà nữa đã đổi đoạn hạ lưu chảy qua Tân Minh thành sông Kim và từ năm 1891 là Thái Bình. Như vậy cửa bể Bàng là cửa biển Thái Bình sau này, nhưng thời Lê – Mạc thì cửa biển còn ở khúc trên, nay thuộc xã Tiên Minh. Hay các sách đã xuất bản, cũng như các thần tích của các di tích ở huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình đều ghi cửa bể Đại Bàng thuộc huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình. Thời nay nhiều nhà sử học và một số sách chính thống đã xuất bản tại Hải Phòng khẳng định cửa bể Đại Bàng ở xã Bàng La (Đồ Sơn) là hoàn toàn chưa có căn cứ. Hay theo trang 143 sách “Đồng Khánh địa dư chí” ghi: “Tiếng sóng kêu phía cửa Đại Bàng (phía hải phận huyện Thụy Anh)…”. Nếu ta đứng ở đất Tiên Lãng nhìn về khu vực phà Dương Áo là hướng Bắc, còn nhìn về khu vực sông Thái Bình ở giang phận xã Tiên Minh là hướng Đông, câu ca trên giống như câu: “Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy. Cơn đằng Bắc đổ thóc ra phơi”)

       Về sau gọi địa danh bằng hai từ thì sông Bàng được gọi là sông Đại Bàng. Như vậy đến lúc này ta có thể khẳng định cửa bể Bàng hay Đại Bàng là cửa Thái Bình thời nay. Còn cửa Bàng hay Đại Bàng của các nhà sử học thời nay nhận định ở Đồ Sơn là hoàn toàn chưa có căn cứ. Hay con sông chảy qua khu vực tổng Nãi Sơn, hay Thiên Lộc huyện Nghi Dương (sau là Kiến Thụy) chỉ là một nhánh của sông Cửu Biều, mà sông Cửu Biều (sau là Đa Độ) là một nhánh của sông Úc và chắc chắn không ai gọi khu vực đó là bể Bàng được. Hay Đồ Sơn, nghĩa là núi Đất, thời cổ gồm 20 ngọn núi của huyện An Lão cổ, thời nay ở huyện An Lão, quận Kiến An có 8 ngọn, huyện Kiến Thụy có 2 ngọn và Đồ Sơn có 10 ngọn. Thực tế Đồ Sơn trước năm 1945 chỉ gồm 3 làng với 8 giáp (xóm) chài (bát Vạn). Hay cũng theo những nhà viết sử cho Hải Phòng trên công nhận khu vực đền Mõ (xã Ngũ Phúc, Kiến Thụy) vào cuối thế kỷ XIII còn là vùng sát biển, thì dưới hạ lưu cách đền Mõ 15 cây số về phía hạ lưu sông sao đã có cửa Đại Bàng. Hay theo bản đồ hành chính tỉnh Kiến An năm 1909, thì toàn bộ khu vực bên tả ngạn khúc dưới sông Đa Độ, tức các xã sau này là Đoàn Xá, Đại Hợp, Tú Sơn, Tân Phong… đất đai còn ngập mặn chưa thể trồng lúa nước được. Hay theo sử Mạc, thì vào thời Lê sơ thì tổng Cổ Trai (nay thuộc xã Ngũ Đoan, Tân Trào, Đại Hà ngày nay) ở sát mép biển. Như vậy vào thời nhà Trần thì toàn bộ nửa dưới phía Đông Nam của huyện Kiến Thụy thời cách mạng và phần đồng bằng của quận Đồ Sơn vẫn còn là biển. Hay cửa Bàng thời Trần còn ở khu vực đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, do vậy bể Bàng hay Đại Bàng thời Trần của phủ Tân Hưng gồm 3 huyện là: Bàng Hà, từ 1469 là Tân Minh (Tiên Lãng); Vĩnh Lại, từ 1838 là Vĩnh Bảo và Tây Quan, từ 1469 là Thụy Anh:

Bể Bàng ở mãi Thụy Anh

Mấy nhà làm sử biến thành Đồ Sơn

Bàng Hà vương vấn nỗi buồn

Vĩnh – Tiên(1) còn mãi bên hồn nước non?

__________

 (1): Viết tắt của hai huyện Vĩnh Bảo và Tiên Lãng

.

NGỌC TÔ