VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
TÔ NGỌC THẠCH
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 534 ngày sinh của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (13/5) đồng thời là tròn 70 năm ngày giải phóng Hải Phòng, chúng tôi lần lượt đăng bài về Hải Phòng...HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
1-
Đây là câu hỏi được rất nhiều người dân miền duyên hải Bắc Bộ quan tâm. Danh từ Hải Phòng (海防) có nghĩa là “nơi canh phòng biển”. Cái tên này có từ xa xưa ở các nước Á Đông. Ngay bên Trung Quốc, như ấp nước Trần thời Xuân Thu (771 TCN - 476 TCN), nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Hay nước Lỗ thời Xuân Thu, nay thuộc huyện Bỉ Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Hay nước Tống thời Xuân Thu, nay thuộc huyện Kim Hương, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Nếu ai đã từng xem bộ phim “Bao Thanh Thiên” tập 27 – 29 nói khá kỹ về địa danh Hải Phòng thuộc châu Thanh (nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc).
Còn tại Việt Nam, có thể cái tên Hải Phòng có từ rất xa xưa, nhưng chúng tôi chưa tìm thấy bất kỳ tài liệu cổ nào để minh chứng nó có trước thời nhà Nguyễn (1802 - 1945). Theo sách “Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí” do Thượng thư Lê Quang Định biên soạn vào đầu thời Gia Long (1806). Đặc biệt tập sách này, được ghi chép một cách tường tận về hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ của nước ta vào đầu thế kỷ XIX. Và sách này còn miêu tả khá tỷ mỷ về toàn bộ sông rạch, cửa biển, bến đò, khe suối, chợ búa, đền miếu, thành quách, di tích, biên ải... Song chưa thấy cái tên “Hải Phòng” nào xuất hiện.
.
Sách Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí, xuất bản năm 1806
Theo lịch sử tỉnh Hải Dương, thì “Hải Phòng” là tên gọi rút ngắn từ một cơ quan thời Tự Đức (1848 – 1883) trên vùng đất của tỉnh này là “Hải Dương thương chính quan phòng”, hay là “Hải Dương quan phòng”, hay “Hải Dương phòng khẩu quan phòng”. Thực tế thì không thấy có cơ quan “Hải Dương quan phòng” hay “Hải Dương phòng khẩu quan phòng”. Vào thời kỳ này, triều đình nhà Nguyễn đặt Nha Hải Phòng ở nhiều nơi thuộc một số tỉnh ven biển Việt Nam. Ví như, Cử nhân năm 1852 Nguyễn Thành Ý, quê huyện Tuy Định (nay thuộc Bình Thuận), làm quan tới chức Hải Phòng xứ Quảng Nam. Hay tại Nghệ An có Nha Hải Phòng được lập năm Tự Đức thứ 14 (1861).
Tại miền đồng bằng duyên hải Bắc Bộ (ven biển các tỉnh Hải Dương, Nam Định và Ninh Bình, nay là các tỉnh thành Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình) được triều đình nhà Nguyễn đặt tên là xứ Hải Phòng. Cụ thể vào năm Tự Đức thứ 16 (1863), nhà vua bổ nhiệm Tiến sỹ Nho học Doãn Khuê (1813 - 1878) làm Chánh sứ Hải Phòng xứ (giống như Tư lệnh Biên phòng vùng duyên hải Bắc Bộ) kiêm Đốc học Định Yên (tỉnh Nam Định và Hưng Yên) thay Hoàng giáp Phạm Văn Nghị (1805 – 1884). Hay vào năm Tự Đức thứ 20 (1867) Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình) là võ quan Đào Trí (1798 - ?) kiêm Thống đốc Hải Phòng xứ ven biển các tỉnh Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình (Chánh sứ Hải Phòng xứ).
Rồi vào năm Tự Đức thứ 21 (1868) thì Khâm phái Trần Đình Túc (1818 – 1899) và Nguyễn Huy Tề tấu trình với triều đình: “Chúng tôi xét cửa biển Trà Lý thuộc tỉnh Nam Định, bãi cát cao rộng, nhà cửa ở được yên ổn, cửa biển hơi sâu, tàu thuyền đậu được vững vàng, đường thủy thông tới tỉnh Nam Định… đến mấy hạt miền thượng du…, qua lại thuận tiện,… chỗ ấy cũng là chỗ tốt. Vậy xin cho mở hàng buôn bán, cho dân tới buôn và nhóm của thiên hạ để tính chuyện lâu dài”…
Vốn là người địa phương, Tiến sỹ Nho học Doãn Khuê hiểu rõ điều kiện thổ nhưỡng, thuỷ văn và thuỷ triều của vùng cửa biển Trà Lý thuộc các huyện Tiền Hải và Chân Định (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Nên ông đề xuất mở cảng ở vùng cửa sông Cấm, nơi gần cửa sông Bạch Đằng, vốn là vùng nước sâu, ít phù sa bồi lắng hơn, lòng sông rộng rãi hơn, cũng thông thương đường thủy với Hà Nội và các tỉnh thành khác. Và sau đó vua Tự Đức đã đồng ý với đề xuất của ông.
Năm Tự Đức thứ 24 (1871), khi chuyển sang làm Doanh điền sứ kiêm Thương biện Hải Phòng xứ, Tiến sỹ Doãn Khuê, người có công lớn trong việc tìm được một danh nhân trẻ, có tài “kinh bang tế thế” ra giúp việc cho mình trong nha Doanh Điền sứ, đó là Cử nhân Bùi Viện (1839 – 1878). Ông đã giao trọng trách cho Cử nhân Bùi Viện vừa đánh dẹp hải tặc, vừa xây dựng kiến thiết bến Ninh Hải thành thương cảng bên cửa sông Cấm và một căn cứ phòng ngự bờ biển kế bên, gọi là Nha Hải Phòng xứ.
Khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất vào năm 1873 - 1874, triều đình nhà Nguyễn phải ký Hòa ước Giáp Tuất với Pháp, trong đó quy định nhà Nguyễn phải mở cửa thông thương các cảng Ninh Hải (sau là cảng Hải Phòng) thuộc tỉnh Hải Dương và Thị Nại tỉnh Bình Định, để đổi lấy việc Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ. Sau đó tại cảng Ninh Hải này, được lập ra một cơ quan thuế vụ chung, quản lý công việc thương mại ở vùng cảng này gọi là “Nha Thương chính”.
Về tên gọi của cảng Ninh Hải, mà người Pháp lúc đầu gọi là “Porte Gétin Haï Phong”, có nghĩa là “cửa vào Hải Phòng”, tức cảng Hải Phòng, còn sau đó được thay đổi qua các thời kỳ. Thời Pháp thuộc được gọi là bến Sáu Kho, nên ở Hải Phòng mới có câu ca “Hải Phòng có bến Sáu Kho. Có sông Tam Bạc có lò xi măng”, đến thời cách mạng (1945) là bến Cửa Cấm, năm 1952 là bến Bạch Đằng, còn từ năm 1956 cảng được mang tên Hải Phòng.
.
Bản đồ huyện An Dương thời Đồng Khánh (1886)
Trong tay chúng tôi có tấm bản đồ huyện An Dương trước trước thời Đồng Khánh (1886) do nhà Nguyễn lập, ta nhận thấy Nha Thương chính nằm ở bên bờ tả ngạn hạ lưu sông Tam Bạc, tức khu vực phía Đông Bắc phường Hạ Lý, quận Hồng Bàng ngày nay. Còn đồn Hải Phòng nằm ở xã Da Viên, tổng Da Viên, bên hữu ngạn hạ lưu sông Tam Bạc, tức phía Tây Bắc phường Minh Khai, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng ngày nay. Xuôi về phía hạ lưu sông Cấm thì cảng (đồn) Ninh Hải I được xây dựng ở xã Lạc Viên, tổng Da Viên, nay là khu vực cảng Cá Hộp. Cảng (đồn) Ninh Hải II ở xã Da Viên, tổng Da Viên, nay thuộc khu vực cảng chính Hải Phòng, ở gần phía thượng lưu sông Cấm hơn, nhưng được xây dựng muộn hơn vì vào thời điểm đó khu vực này còn nhiều sình lầy, sú vẹt. Còn cảng (đồn) Ninh Hải III ở xã Bính Động, tổng Lâm Động, huyện Thủy Nguyên bên tả ngạn sông Cấm.
Những năm trước, Tiến sỹ Nho học Phạm Phú Thứ (1821 – 1882) làm Tổng đốc Hải Yên (Hải Dương – Yên Quảng) cũng đặt trụ sở ở Hải Phòng xứ tại trung tâm làng chài Da Viên, tổng Da Viên, huyện An Dương, tức khu vực Ủy ban Nhân dân thành phố, thuộc phường Minh Khai quận Hồng Bàng ngày nay...
NGỌC TÔ
(Còn nữa, xem ở phần sau)
Các tin khác
-
THÁI BÌNH GIANG (太平江), TỨC SÔNG THÁI BÌNH
-
LỤC ĐẦU GIANG (六頭江), TỨC SÔNG LỤC ĐẦU
-
SÔNG ĐUỐNG DO TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM ĐẶT TÊN
-
SÔNG TAM BẠC Ở HẢI PHÒNG
-
XANH BẾN NGHIÊU PHONG
-
ĐẤT CẢNG HẢI PHÒNG
-
HẢI PHÒNG CÓ TỪ NĂM NÀO?
-
TẠI SAO LÀNG CAN TRÌ LẠI ĐỔI THÀNH HU TRÌ?
-
ĐỊA DANH “ĐẠI THAN” THỜI TRẦN NẰM Ở ĐÂU?
-
SÔNG BẠCH ĐẰNG CÒN GỌI LÀ SÔNG RỪNG (DẦNG)?