/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

TÔ NGỌC THẠCH

GIA TỘC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Vào chủ nhật tuần vừa qua, anh em tôi có việc phải vào tỉnh Ninh Bình, nhân tiện có qua xã Trường Yên, huyện Hoa Lư để tìm hiểu kỹ hơn về hậu duệ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trải qua hơn bốn trăm năm

            GIA TỘC TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM

.

       Vào chủ nhật tuần vừa qua, anh em tôi có việc phải vào tỉnh Ninh Bình, nhân tiện có qua xã Trường Yên, huyện Hoa Lư để tìm hiểu kỹ hơn về hậu duệ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trải qua hơn bốn trăm năm. Trên xe một vài thành viên trong đoàn hỏi tại sao con cháu cụ Trạng lại trôi dạt về đây và còn bao nhiêu chi nữa? Đây cũng là câu hỏi hóc búa, mà nhiều người dân thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo còn chưa hiểu, chứ nói gì những người ở các vùng miền khác?

       Theo sử gia Phan Huy Chú ghi trong “Lịch triều hiến chương loại chí” thì cấp bậc phong Ấm thực thi từ thời Trần Thánh Tông, năm Thiệu Phong thứ 10 (1267). Lúc bấy giờ định lệ phong Ấm cho Tôn Thất. (Con cháu trước làm tới chức tước gì thì quy định ông cha được truy phong ở mức đó). Đến thời Lê Thánh Tông trở đi lệ phong Ấm được quy định khá chi tiết. Nếu là Quận công thì cha và ông đều được phong tước Hầu, mẹ và bà đều được phong Chánh Phu nhân, vợ được phong Phu nhân, con trưởng được phong Triều liệt đại phu, các con được phong Hoằng tín đại phu, cháu trưởng được phong Hiển cung đại phu.

       Nếu là tước Hầu thì cha và ông đều được phong Bá, mẹ và bà đều được phong Tự Phu nhân, các con trưởng được phong Hoằng tín đại phu, các con khác được phong Hiển cung đại phu, cháu trưởng được phong Mậu lâm lang… Đời Huyền Tông, năm Cảnh Trị thứ 2 (1664), chuẩn định cho công thần khai quốc từ Tam thái, Tam thiếu trở lên con cháu đời đời là tôn công thần, công thần trung hưng, thì từ Tả Hữu Đô đốc, Tả Hữu Thị Lang trở lên con cháu đời đời là quan viên tử.

       Theo bản Phả ký (Bạch Vân am cư sỹ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) đời vua Lê Hiển Tông thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có ba bà vợ theo thứ tự:

       a- Bà cả là Từ Ý phu nhân, hiệu là Từ Ý (có tài liệu ghi là Thuần Ý), tên húy là Diệu họ Dương, con gái út Tiến sỹ Hữu thị lang bộ Hình Dương Đức Nhan thời vua Lê Thánh Tông (quê làng Hà Dương, xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo ngày nay). Theo lưu truyền thì bà cả sinh được năm người và bà hai sinh được bảy người cả trai lẫn gái.

       b- Bà thứ hai là Như Tĩnh phu nhân, hiệu là Như Tĩnh, họ Nguyễn.

       c- Bà thứ ba là Vi Tĩnh phu nhân, hiệu Vi Tĩnh, cùng người họ Nguyễn, còn gọi là Như Nguyệt phu nhân hay Minh Nguyệt, quê Đồ Sơn, Hải Phòng. Bà Minh Nguyệt không có con, sau đó tu tại chùa làng Mai, nằm cạnh làng Trình, từ năm Chính Hòa thứ 21 (1700) chùa chuyển về vị trí như ngày nay vì “Khúc sông bên nở bên bồi” và mang tên Song Mai.

       Nguyễn Bỉnh Khiêm có mười hai người con, trong đó có năm gái và bảy trai. Người con gái lớn lấy chồng là Phạm Dao. Lúc Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ chém mười tám lộng thần trong đó có con rể ông, đương thời đang làm Trấn thủ Sơn Nam (trung tâm tại Vân Sàng, nay là Vân Giang, Ninh Bình). Còn bảy người con trai gồm:

1-    Con cả hiệu là là Túy Am, được phong Triều liệt đại phu, tước Quảng Nghĩa hầu. Con trai trưởng của người con cả này được phong hàm Hiến cung đại phu, tước Xuyên Nghĩa bá.

2-    Người con thứ hai là Nguyễn Văn Chính, được phong Hoằng nghị đại phu, tước hầu.

3-    Người con thứ ba hiệu là Hàn Giang cư sỹ, được phong Hoằng nghị đại phu. Làm quan đến chức Phó hiến. Chức quan thứ hai, sau Hiến sát sứ, theo quan chế thời Bảo Thái hàm chánh thất phẩm, tước Hàn Giang hầu. Đời tiếp theo đổi thành họ Giang.

4-    Con thứ tư hiệu là Thuần Phu, được phong Hoằng nghị đại phu, tước Quảng

Đô hầu.

5- Con thứ năm hiệu là Thuần Đức, được phong Hoằng nghị đại phu, tước Bá Thư hầu.

 6- Con thứ sáu hiệu là Thuần Chính, phong Hoằng nghị đại phu, tước Thắng Nghĩa hầu.

 7- Người con út thứ bảy là Nguyễn Ngọc Liễn, không sáng dạ lắm, làm nông nghiệp, được Nguyễn Bỉnh Khiêm cho gia đình người con út này sang sinh cơ lập nghiệp tại làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, nay là xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng để trông coi phần mộ, thờ phụng ông bà ngoại Thượng thư Nhữ Văn Lan và Phu nhân Vương Thị Nhuận cùng mẹ là Chánh phu nhân Nhữ Thị Thục. Và được Nguyễn Bỉnh Khiêm ủy quyền mang chiếc lư hương có bài “Lư hương ký” làm bằng chứng để sau này khi hết loạn lạc anh em, con cháu tìm lại nhau. Còn một mục đích nữa là nhờ vào thế lực của ông ngoại là quan Thượng thư triều Lê sơ về trí sỹ tại quê để tránh sự trả thù của nhà Lê - Trịnh (vì Nguyễn Bỉnh Khiêm phò tá nhà Mạc), sau này tạo thành một chi họ Nguyễn – Nhữ tại mảnh đất Tiên Lãng bên triền Tả sông Hàn.
.

Có thể là hình ảnh về ngoài trời và tượng đài
Trưởng họ Giang Nguyễn Hoa Lư Giang Văn Quý been mộ Hàn Giang hầu

          Trong “Bạch Vân am cư sỹ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) đời vua Lê Hiển Tông, chúng tôi thấy người con thứ hai Túy Am tiên sinh là chưa đúng, mà là con trưởng của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và Từ Ý phu nhân mới chính xác. Và người con thứ ba được phong Hiển cung đại phu, tước Xuyên Nghĩa bá là chưa đúng, mà chỉ là cháu trưởng của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà thôi.

          Tất cả các con cháu của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều phò tá nhà Mạc, nên vào cuối đời, ông đã khuyên họ phải thay tên đổi họ, ly tán và đến năm Quang Hưng thứ 15 (1592) khi nhà Mạc thất thủ thì các hậu duệ của ông đã phiêu bạt tới nhiều vùng đất mới.

Như vậy Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đại thần trong triều, được phong tước Trình Quốc công, nên gia tộc được phong Ấm thực thi:

       a- Ông nội Nguyễn Bỉnh Khiêm là Nguyễn Văn Tĩnh được truy phong tước Đông Sơn hầu (Tấm bia đá tại thôn Quang Hiên, phường Tân Bình, thị trấn Tam Điệp, Ninh Bình ghi lại việc Thiếu bảo Từ Quận công Nguyễn Văn Tĩnh, Đông Sơn hầu sửa đường núi, bắc cầu gỗ, dựng quán chợ tại đây). Bà nội được truy phong Chánh Phu nhân.

       b- Phụ thân của Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Nguyễn Văn Định, hiệu là Cù Xuyên tiên sinh, được vua Mạc phong Thái Bảo nghiêm quận công, tước hầu.

       c- Mẫu thân là Nhữ Thị Thục được phong Từ Thục Chánh phu nhân (Nhữ Chánh phu nhân) hay gọi là Trình mẫu.

       Sáu người con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được cấp hàm ấm sinh và là những người có công khi làm quan nhà Mạc được ban tước hầu. Kèm theo tước hầu là kiến địa (ban đất), nên người con lớn được ban tước Quảng Nghĩa hầu và được cấp đất tại tổng Côn Minh, châu Bạch Thông, phủ Thông Hóa, đạo Thái Nguyên (Bạch Thông nay là Bắc Cạn). Hoặc người con thứ ba là Nguyễn Văn Chính được ban tước Hàn Giang hầu và được cấp đất tại tổng Hàn Giang, huyện Cẩm Giàng, trấn Hải Dương. Hay người con thứ tư được ban tước Quảng Đô hầu và được cấp đất tại tổng Hoàng Chỉ, huyện Tam Dương, phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây. Hay người con thứ năm được ban tước Bá Thư hầu và được ban đất tại tổng Bá Hạ, huyện Bình Tuyền, phủ Phú Bình, đạo Thái Nguyên,…Nhưng đến khi nhà Mạc bị tan rã thì các hậu duệ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phiêu bạt tới nhiều vùng đất khác nhau, mà đến nay còn chưa biết hết.   

       Người con trai thứ ba là Hàn Giang cư sỹ trôi dạt về tổng Trường Yên, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên (An), trấn Sơn Nam. Từ năm Cảnh hưng thứ 2 (1741) nhà Lê chia trấn Sơn Nam ra làm ba lộ là lộ Thanh Hoa Ngoại, Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. Lộ Thanh Hoa Ngoại gồm hai phủ là Trường Yên và Thiên Quan. Sau phủ Trường Yên đổi thành phủ Yên Khánh và gồm ba huyện là Yên Khang (sau là Yên Khánh), Yên Mô, Gia Viễn. Tổng Trường Yên thuộc huyện Gia Viễn. Còn phủ Thiên Quan (sau đổi là Nho Quan) gồm ba huyện Yên Hoá, Phụng Hoá, Lạc Thổ (sau đổi là Lạc Yên). Đến năm Gia Long thứ 5 (1806) đổi Thanh Hoa Ngoại trấn thành đạo Thanh Bình. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829) đổi thành trấn Ninh Bình, lập thêm một huyện mới Kim Sơn nữa đưa trấn Ninh Bình có bảy huyện.

       Như vậy Hàn Giang cư sỹ đã di cư về xã Trường Yên, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, nay là thôn Trường Thịnh, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Vì trước đó anh rể ruột ông là Phạm Dao làm Trấn thủ Sơn Nam, mà trung tâm ở ngay sông Vân (Vân Sàng, sau là Vân Giang), còn một số con cháu ở khu vực này. Vào thời kỳ trước đó Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vào thăm gia đình con gái lớn của mình và thấy khu đất bên cạnh núi có phong thủy tốt, nên Hàn Giang cư sỹ mới di cư về đây. Thôn Trường Thịnh này nằm cách đền vua Đinh, vua Lê chỉ vài trăm mét, còn khu mộ phần họ Giang – Nguyễn có từ xa xưa tại phần ruộng của Hàn Giang cư sỹ, nằm bên Hữu phía trước đền hai vua một đoạn ngắn khoảng hai trăm mét, ngay sát nơi để xe khi vào tham quan đền. Đường tình duyên của ông cũng giống người bố đẻ của mình, có ba bà vợ, người thứ ba họ Phạm (là con quan họ Mạc, sau đổi thành họ Phạm) bà rất giỏi về văn thơ và quản lý, nhưng không có con, hiện mộ phần vẫn còn tại thôn Nhân Lý, xã Ninh Mỹ gần đó.

          Theo chúng tôi thì Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có con trưởng và cháu trai trưởng là:

a-     Đời 1: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585)

b-    Đời 2: Triều liệt đại phu, hiệu là Túy Am

c-     Đời 3 là Hiến cung đại phu, tước Xuyên Nghĩa bá

      Còn bản phả ký do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) là của ngành thứ ba chuyển từ họ Nguyễn thành họ Giang mà thôi:

1-    Đời 1: Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm

2-    Đời 2: Hoằng nghị đại phu Hàn Giang cư sỹ

3-    Đời 3: Giang Thiết Đức

4-    Đời 4: Ông Giang Đạo Tiến

5-    Đời 5: Ông Giang Đạo Thông

6-    Đời 6: Ông Giang Đăng Doanh

7-    Đời 7: Ông Nguyễn Thời Đương, sinh năm 1678 (Mậu Ngọ) đã quay về ở nhà cũ tại xã Trung Am, tổng Đông Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương và có ba người con trai. Lúc này (1742) gia đình ông Nguyễn Thời Đương có hơn chục người sống trong căn nhà tre ba gian trên khuôn viên cũ của gia đình cụ tổ Nguyễn Bỉnh Khiêm, nằm ở phía Đông của làng Trung Am, gần đê sông Hàn.

       Theo lời tự viết của danh sỹ, đại thần nhà Lê trung hưng Vũ Khâm Lân khi đến làng Trung Am năm 1742 và năm 1743 như sau:  

“Người trong họ của tiên sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm là Nguyễn Hữu Lý sợ sau này gia phả thất lạc có soạn lại một quyển và nhờ tôi viết cho bài tựa…Tôi đây là người Hồng Châu, cùng quê với tiên sinh, nhưng nay đã cách một trăm chín mươi năm rồi, còn biết gì để viết… Gia đình Nguyễn Thời Đương cho tôi xem quyển gia phả và nói: Trước đây đã trải bao phen loạn lạc, bản gốc chẳng còn, sau họ mới sưu tầm được mấy trang giấy rách, trong đó chỉ thấy biên tên họ tiền nhân, ngoài ra chẳng có gì khác cả. Vì thế, tôi phải thâu nhặt ý kiến nhiều người, rồi hợp với những điều mắt thấy tai nghe để viết lên bài tựa. Còn việc sưu tầm những văn thơ của tiên sinh, xếp lại thành thiên, đóng thành tập, để lưu cho đời sau thì xin nhường phần lại cho các vị cao minh khác”…

       Như vậy danh sỹ Vũ Khâm Lân đến tận thôn Trung Am có một buổi, những tư liệu gốc không còn, làm sao viết được gia phả trọn vẹn. Gần ba trăm năm qua, cũng chưa có hậu duệ họ Nguyễn Bỉnh Khiêm nào ghi lại được bản gia phả sơ đẳng nhất. Tôi có hỏi một số ngành trưởng thuộc các địa phương như ở Trung Am, Hà Dương (Vĩnh Bảo), An Tử Hạ (Tiên Lãng, Hải Phòng), Thái Hưng (Thái Thụy, Thái Bình), Trường Yên (Hoa Lư, Ninh Bình), Long Châu (Yên Phong, Bắc Ninh), Thanh Am (Hà Nội)v.v. nhưng chưa nhận được một thông tin nào chính thống…

       Theo tương truyền thì người con của Hàn Giang cư sỹ là em ông Giang Thiết Đức di cư về xã Vũ Nghị, tổng Lễ Thần, huyện Thanh Lan, cùng trấn Sơn Nam (nay là thôn Vũ Thành, xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) để khai hoang lập nghiệp. Hậu duệ đời thứ sáu họ Giang xã Vũ Nghị, huyện Thanh Lan đồng thời là hậu duệ đời thứ bảy Hàn Giang cư sỹ là Giang Sỹ Đoan, sinh năm Chính Hòa thứ 15 (1694) đời vua Lê Hy Tông, rất sáng dạ, nhưng nhà nghèo. Ông phải đi làm giúp việc cho thủ từ chùa làng Du Lâm, tổng Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là Từ Sơn, Bắc Ninh) để có tiền ăn học. Trong làng Du Lâm có một phú ông rất thích thơ phú, thường xuyên ra vãn cảnh chùa và gặp Giang Sỹ Đoan lấy làm thích thú. Qua nhiều lần trò chuyện, vấn đáp, ông có cảm tình với chàng thanh niên với sức vóc khỏe khoắn lại thông minh lanh lợi này. Rồi sau phú ông kia gả con gái rượu cho Sỹ Đoan và cho ông về ở rể. Theo “Tang thương ngẫu lục”, Kính Phủ Nguyễn Án viết như sau:

       “Khi Giang Sỹ Đoan về ở rể tại nhà phú ông trong làng tôi và sinh hạ được một người con trai. Người vợ của ông tính khí dữ dằn, hễ thấy bạn của chồng tới chơi là đuổi thẳng, lại còn lải nhải nói rằng: Đồ “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” cớ gì mà nói năng ỏm tỏi ra chiều bắng nhắng thế.

       Đến khi có khoa thi, ông sắm sửa để đi, người vợ vốn tính rất keo kiệt, quyết không chịu chu cấp tiền nong cho Giang Sỹ Đoan. Ông giận dỗi, vùng vằng ra đi, ai dè bà ta đuổi theo, lột hết quần áo, khiến ông phải lội xuống ao để ẩn nấp. Bấy giờ có một thiếu nữ cùng bà nội ở làng bên mang vải ra chợ bán, thấy cảnh ấy, liền nhờ bà nội tới hỏi xem đầu đuôi sự thể thế nào. Biết chuyện, thiếu nữ xé tấm vải tặng để ông đóng khố dùng tạm và cho ít tiền để ông lên kinh đô thi. Khoa ấy ông đỗ và liền cưới cô gái bán vải kia làm vợ. Sau này ông làm quan trong triều đến sáu mươi lăm tuổi thì về trí sỹ, thọ chín mươi mốt tuổi. Người con gái này sau là chính phu nhân của ông. Các quan: Hữu thị lang bộ Hình Uông Sỹ Lãng (tức Uông Sỹ Điển); Tri huyện Cẩm Giàng là Uông Sỹ Thiến; Lang trung bộ Lại là Uông Sỹ Trạch đều do chính phu nhân này sinh ra”.

       Tương truyền, sau khi Giang Sỹ Đoan đỗ đạt và cưới cô gái bán vải cứu mình khỏi tình huống dở khóc dở cười đó, bà vợ đầu của Giang Sỹ Đoan liền chạy đến kiếm chuyện. Người vợ mới của ông bình thản nói: “Tôi chỉ lấy cái mà bà đã nhẫn tâm vứt xuống ao, chứ có tranh giành cái gì của bà đâu? Còn như áo mũ hiện giờ mà chồng tôi đang mặc là của vua ban, bà có giỏi thì cứ đến mà lột”.

       Bà vợ cũ nghe vậy xấu hổ quá, bỏ làng ra đi, không rõ tung tích sau này ra sao nữa, nhưng người đời vẫn chê cười vì không thấy được “ngọc trong đá”, bà chê chồng là loại “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” mà quên mất câu:

“Dài lưng đã có võng đào

Tốn vải đã có áo trào vua ban”…

       Giang Sỹ Đoan đỗ Tiến sỹ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái thứ 2 (1721) đời vua Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Hữu Thị lang bộ Công, tước Thao Đường bá, đồng tác giả "Đại Việt lịch triều đăng khoa lục" và là tác giả sách "Nam hành tiểu ký".

       Từ lúc đi thi đến khi làm quan trong triều được tám năm ông vẫn mang họ Giang (江), nhưng khi Trịnh Giang lên ngôi vào niên hiệu Vĩnh Khánh nguyên niên (1729) đời vua Lê Duy Phường thì ông đổi thành họ Uông (汪.). Cũng từ đó trở đi tên đầy đủ của ông là Uông Sỹ Đoan. Hậu duệ của ông ở Thái Thụy, Thái Bình hỏi tôi tại sao ông lại đổi thành họ Uông mà không đổi thành họ khác, bởi vì theo Hán tự thì chữ Giang (江) chỉ cần thêm một gạch ngang nữa là thành chữ Uông (汪) mà thôi. Một dòng họ Uông tại xã Vũ Nghị bắt đầu thành họ Uông từ đó và từ gốc họ Nguyễn nay đã có ba họ (Nguyễn, Giang, Uông), nhưng tất cả họ đều là ruột rà máu mủ của nhau. Vào năm Cảnh Hưng thứ 19 (1758) ông về trí sỹ, nhưng được triều đình phong tước Lam Đình bá và được ở lại kinh dự hàng quốc lão. Khi về xã Vũ Nghị ông đã đặt tên cho bến sông Vị Dương ở quê là bến Hàn Giang (ngay đình Thượng thôn Văn Hàn kế bên) để tưởng nhớ về tổ tiên xa xưa của mình.

       Con trai ông là Uông Sỹ Điển sinh năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737), sau đổi thành Uông Sỹ Lãng, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 27 (1766) đời vua Lê Hiển Tông. Tác phẩm đồng biên tập “Đại Việt lịch triều đăng khoa lục”. Làm quan Nhập thị bồi tụng, Hữu thị lang bộ Lễ, Phụng thị nhật giảng, Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử, Đốc thị đạo Tuần Quảng, Hữu thị lang bộ Hình, tước Thao Đường bá đồng triều với bố đẻ Uông Sỹ Đoan.

       Mảnh đất xã Vũ Nghị, tổng Lễ Thần, huyện Thanh Lan, từ thời nhà Trần đến thời Lê trung hưng thuộc thừa tuyên rồi trấn Sơn Nam. Vào thời vua Minh Mạng thì huyện Thanh Lan đổi thành huyện Thanh Quan, còn trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định, sau đó thành tỉnh Nam Định. Năm Tự Ðức thứ 3 (1850) huyện Thanh Quan lệ vào phủ Thái Bình. Cùng thời gian lại tách phủ Thái Bình làm hai: Phủ Thái Bình kiêm quản các huyện Thanh Quan, Ðông Quan, Thụy Anh. Phân phủ Thái Bình quản hai huyện Quỳnh Côi và Phủ Dực. Còn cái tên Thái Ninh sau này mới có, năm 1969 thì huyện Thái Ninh và huyện Thụy Anh hợp nhất thành huyện Thái Thụy thuộc tỉnh Thái Bình…

       Còn theo một tương truyền khác nữa thì người con trai thứ hai của Hàn Giang cư sỹ về xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây, nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Rồi sinh ra Giang Văn Minh vào năm Gia Thái nguyên niên (1573), từng đỗ đầu kỳ thi Hội, thi Đình, đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời vua Lê Thần Tông khi tuổi đời ông đã bước sang năm mươi sáu. Khoa thi này không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, vì vậy ông là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi. Sau khi đỗ đại khoa, ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631).

       Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô Ngự sử  Nguyễn Duy Hiểu được vua Lê Thần Tông cử làm Chánh sứ cùng với bốn Phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cốngnhà Minh. Sau khi chết, ông được truy tặng chức Tả thị lang bộ Công, tước Vinh Quận công…

       Trong chuyến đi sứ này của đại thần Giang Văn Minh có nhiều giai thoại, nhưng có một giai thoại mà có lẽ không người Việt Nam nào không biết. Tại triều đình nhà Minh, khi vua Sùng Trinh muốn làm nhục sứ thần Đại Việt bằng cách ra vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” ("銅柱至今苔已綠"), có nghĩa là “Cột đồng trụ nay rêu đã bám xanh”. Vua Minh muốn nhắc đến cột đồng Mã Viện chôn sau khi đánh thắng Hai Bà Trưng, với lời nguyền: “Cột đồng này gãy thì dân Giao Chỉ sẽ bị diệt vong”. Chánh sứ Giang Văn Minh trước mặt sứ thần các nước và triều đình nhà Minh đã hiên ngang đối lại: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” (藤江自古血猶紅), nghĩa Sông Đằng tự xưa còn đỏ máu”. Vế đối của Giang Văn Minh đã nhắc lại trên sông Bạch Đằng màu vẫn đỏ là vì máu loang ra từ những trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, của Hoàng đế Lê Đại Hành đập tan quân Tống năm Thiên Phúc thứ 2 (981), của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đại thắng quân Nguyên Mông năm Trùng hưng thứ 4 (1288). Có thể nói, chỉ bảy chữ xuất thần này đã hội tụ được cả tinh anh, linh khí non sông Đại Việt.

         Vua Sùng Trinh bị hạ nhục, bẽ mặt trước các sứ thần nên đã bất chấp mọi quy định bang giao, sai gắn trám đường vào miệng, vào mắt Giang Văn Minh, mổ bụng xem sứ thần Việt to gan đến thế nào. Nhưng lại khen Giang Văn Minh là người tiết tháo, bèn sai lấy thủy ngân ướp xác, cho ngậm sâm, rồi trả quan tài về nước Nam.

         Đặc biệt cảm kích trước vị sứ giả kiên cường, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đã về tận Đường Lâm dự lễ an táng Thám hoa Giang Văn Minh và khen ngợi: “Đi sứ không làm nhục mệnh nước, thật là anh hùng kim cổ”. Chính văn tài, dũng khí và tinh thần xả thân vì uy danh của dân tộc mà Thám hoa Giang Văn Minh được lưu danh mãi trong sử sách…

       Vào năm đại lễ nhà Mạc cách đây vài năm tại xã Ngũ Đoan, Kiến Thụy, Hải Phòng, Ban tổ chức cho chúng tôi biết từ khi nhà Mạc tan rã, để tránh sự trả thù của nhà Lê - Trịnh, họ Mạc đã đổi thành gần một trăm họ khác nhau, còn họ Nguyễn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đổi thành bao nhiêu họ và hậu duệ của bốn Tướng công kia ở những vùng nào, có thể liên lạc với chúng tôi để chắp nối dòng họ. Mọi thư từ phản ảnh xin gửi về theo E-mail: tongocthachhp@gmail.com

 NGỌC TÔ