VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Thơ
CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ ĐỒ SƠN
Đồ Sơn chỉ là một tổng của huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn gồm 8 làng chài.CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ ĐỒ SƠN - HẢI PHÒNG
.
Đồ Sơn chỉ là một tổng của huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn gồm 8 làng chài. Tới thời Pháp thuộc, người Pháp mới đầu tư Đồ Sơn thành nơi nghỉ mát và từ đó mới có đường bộ liên huyện từ Hải Phòng thẳng tới Đồ Sơn, còn trước đó muốn tới Đồ Sơn phải qua huyện lỵ Nghi Dương ở khu vực núi Đối. Chúng tôi sưu tầm được một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về mảnh đất này.
1-
Phủ Thượng thành Bình
Phủ Hạ thành Ninh
Hai phủ Nam – Kinh
Giữ nguyên tên cổ
(Câu này ý nói vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822), vì kiêng húy phủ Thượng Hồng đổi thành phủ Bình Giang (平江府), có nghĩa là “vùng sông nước êm đềm”, vì phủ lỵ này nằm ở giáp Ninh Bình, làng Hoạch Trạch, tên Nôm là Vạc, xưa thuộc tổng Đường An, huyện Đường An, nên phủ này còn gọi là Vạc. Còn phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang (寕江府), có nghĩa là “vùng sông nước an toàn”, vì phủ lỵ sau đó đóng ở tổng Bất Bế, tên Nôm là Vé, nên còn có tên khác nữa là phủ Vé. Chứ ở đây hai từ Bình Giang, hay Ninh Giang không liên quan gì tới sông “Bình” hay sông “Ninh” nào cả. Còn phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn vẫn giữ nguyên tên cổ. Rồi vào năm Minh Mạng thứ 18 (1837), thì bốn huyện là Nghi Dương, An Dương, Kim Thành và An Lão được tách từ phủ Kinh Môn để thành lập phủ mới mang tên Kiến Thụy. Sau này tất cả 5 phủ trên trở thành đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Hải Dương và tỉnh Kiến An, sau là thành phố Hải Phòng, từ 07/ 2025 thì tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng sáp nhập mang tên thành phố Hải Phòng)
2-
Chớp đầu Độc bỏ thóc ra phơi
(Đầu Độc, nghĩa là ở núi Độc xưa thuộc tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương, nơi có đền Bà Đế, thời nay thuộc phường Hải Sơn, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng)
3-
Tám con theo mẹ ròng ròng
Một con ngoảnh lại ra lòng bất nhân.
(Câu ca này thể hiện ở tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương có mười ngọn núi theo sách “Đồng Khánh địa dư chí” gồm: “Mẫu Sơn (núi Mẹ); Tháp Sơn (núi có tháp Tường Long); Bông Sơn; Hoành Sơn (núi Ngang); Dĩ Sơn (núi Khỉ); Lỗi Sơn; Mộc Sơn; Dậu Sơn (núi Gà); Hương Sơn và Độc Sơn (núi Độc có đền Bà Đế). Trang 143 sách này ghi: “Tám con theo mẹ ròng ròng. Một con ngoảnh lại ra lòng bất nhân”. Các tên núi được chép trong sách quốc sử thời Nguyễn, không hiều vì sao thời nay lại đặt tên khác như Tháp Sơn lại biến thành Long Sơn… Hay một số sách thời nay, kể cả trang 133 “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” lại ghi “Chín con theo Mẹ ròng ròng” là chưa chính xác. Vì ở Đồ Sơn có mười ngọn núi, thì tám con và mẹ (Mẫu Sơn) nữa là chín, cộng thêm núi Độc nữa là mười)
4-
Gái lấy chồng Đồ Sơn – bát Vạn
Trai lấy vợ sang huyện Hoa Phong
(Bát Vạn, nghĩa là 8 xóm chài thuộc tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương, nay thuộc quận Đồ Sơn. Còn Hoa Phong là tên huyện cổ của Cát Hải, từ thời Thiệu Trị đổi thành Nghiêu Phong. Từ đầu thế kỷ XX mang tên Cát Hải, nhưng diện tích bị thu hẹp đi rất nhiều)
5-
Sóng kêu bể Cồn đổ thóc vào rang
Sóng kêu bể Bàng đổ thóc ra phơi
(Bể Cồn thuộc hải phận xã Quần Mục, hay Cồn Mục, tên Nôm là Cồn, xưa thuộc tổng Thiên Lộc (thời Tự Đức đổi thành Đại Lộc), huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, thời nay thuộc xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy. Còn bể Bàng, tức cửa biển Đại Bàng. Theo trang 143 sách “Đồng Khánh địa dư chí” giải thích: “Hải triều lên xuống mỗi tháng 2 kỳ. Dân địa phương thường quen nghe tiếng sóng động mà dự đoán trời ráo hay mưa: Tiếng sóng động kêu phía hải phận làng Quần Mục thì trời mưa; Tiếng sóng kêu phía cửa Đại Bàng (phía hải phận huyện Thụy Anh) thì trời tạnh ráo”. Như vậy cửa Đại Bàng ở vị trí khác, chứ không phải vị trí như các nhà sử học thời nay khẳng định)
6-
Lý gia truyền được mấy đời
Chùa tan, tháp đổ, chuông rơi nò Hầu
(Khu vực chùa Vân Bản ở Đồ Sơn có chuông rơi xuống biển được vớt năm 1957, còn Nò là từ cổ chỉ dụng cụ đánh cá)
7-
Dân Trà Cổ tổ Đồ Sơn
(Câu này ý nói tổ tiên của người Trà Cổ, Quảng Ninh hay nói rộng ra là người ở Tam Đảo bên kia biên giới Việt Trung là ngư dân từ tổng Đồ Sơn huyện Nghi Dương di cư đến)
8-
Dân Đồ Sơn lầm than vô hạn
Sống quanh năm làm bạn với thuyền
Bởi vì manh áo đồng tiền
Mang thân bơi lặn khắp miền biển khơi
(Làng Đồ Hải, Vạn Tuyền và Đồ Sơn, xưa thuộc tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, thời cách mạng thuộc thị trấn Đồ Sơn, thời nay thuộc quận Đồ Sơn. Nơi đây có tám làng chài (bát vạn), nghề nghiệp trước đây chủ yếu là chài lưới)
9-
Dù ai buôn đâu bán đâu
Mùng mười tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mùng mười tháng tám nhớ về chọi trâu.
(Đây là câu ca dao cổ, được ghi ở sách “Đồng Khánh địa dư chí” và được ghi ở nhiều sách ở vùng ngoại ô của trấn Hải Dương xưa. Hay ở Tam Đảo bên kia biên giới Việt – Trung, thì làng Vu Đầu cũng tổ chức chọi trâu vào mùng mười tháng tám và câu ca “Dù ai buôn đâu bán đâu. Mùng mười tháng tám chọi trâu thì về”, mặc dù các công dân nơi đây đã xa Đồ Sơn nửa thiên niên kỷ)
10-
Dù ai buôn đâu bán đâu
Mùng Tám tháng Sáu chọi trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mùng Chín tháng Tám nhớ về chọi trâu.
(Vào thời cách mạng trò chơi chọi trâu này có thể thay đổi, nên mới có câu ca trên. Ngày mùng tám tháng sáu là chọi vòng sơ khảo, còn ngày mùng chín tháng tám là chọi vòng chung kết ở quận Đồ Sơn, Hải Phòng. Từ năm trâu húc chết chủ (2017) trở đi, thì không còn chọi vòng sơ khảo nữa và câu ca chỉ còn câu: “Dù ai buôn đâu bán đâu. Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về”. Thế mới biết nghề chơi nào cũng lắm công phu)
11-
Dính với dân Đồ Sơn
Mất cả tôm lẫn cá
(Tổng Đồ Sơn xưa thuộc huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn. Thời nay thuộc quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng).
12-
Đền Trần linh thiêng
Soi nghiêng Tháp cổ
(Đền thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn ở Mẫu Sơn, tức núi Mẹ thuộc tổng Đồ Sơn, thời nay thuộc phường Vạn Sơn, quận Đồ Sơn. Còn tháp cổ Đồ Sơn xây dựng từ thời Trần (1225 - 1400) trên núi Tháp thuộc làng Ngọc Tuyền, tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương (từ 1469 về trước nữa thuộc huyện An Lão). Thời nay thuộc phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn, Hải Phòng. Trang 224 sách “Đồng Khánh địa dư chí” bản gốc chữ Hán ghi: “名勝,塗山故塔,山臨大海蜿蜒如長龍吸水,登臨可供玩賞,陳朝有鞏塔于山上(嘉隆年築塔取石). Phiên âm: Danh thắng! Đồ Sơn cố tháp. Sơn lâm đại hải, uyển diên như trường long hấp thủy, đăng lâm khả cộng ngoạn thưởng, Trần triều hữu trúc tháp vu sơn thượng, (Gia Long niên hủy tháp thủ thạch). Dịch nghĩa (Vũ Hoàng): Danh thắng! Tháp cổ Đồ Sơn. Dãy núi trông xuống biển cả, ngoằn nghoèo như con rồng dài hút nước. Nếu trèo lên núi xem phong cảnh thì thấy thật đẹp mắt. Đời Trần dựng tháp trên núi ấy. Vào thời Gia Long (1802 - 1819) tháp bị phá để lấy đá”)
13-
Ăn chơi Vạn Hoa
Sa hoa đồi Vung
Hải Đăng hòn Dấu
(Đây là câu ca vào thời Pháp thuộc, lâu đài Vạn Hoa trên Mộc Sơn, tức núi Mộc, thời nay thuộc khu Ba Đồ Sơn. Bên dưới lâu đài này là Bến tàu không số K15 - Di tích cấp quốc gia đặc biệt. Đồi Vung là tên có từ thời Pháp thuộc, trước đó là Dậu Sơn, tức núi Dậu, thời nay thuộc khu Hai Đồ Sơn có biệt thự Bảo Đại nổi tiếng. Còn hòn Dấu là đào nhỏ bên ngoài phía Đông Nam Mộc Sơn, vì ở đây có ngọn hải đăng nên gọi là hòn Dấu, tên cổ là Song Ngư hay Cồn Dừa. Trước năm 1954 người Pháp đang tiến hành xây cầu bê tông ra hòn Dấu, nhưng vì chiến tranh bị bỏ dở khi mới làm được mấy nhịp)
14-
Muối Vũ An
Cam Đồng Dụ
Đú Đồ Sơn
(Làng Vũ An hay Vũ Yên, xưa thuộc tổng Hạ Đoàn, huyện An Dương, thời nay là đảo Vũ Yên bên tả ngạn sông Cấm. Làng Đồng Dụ xưa thuộc tổng Văn Cú, huyện An Dương, thời nay thuộc xã Đặng Cương, huyện An Dương. Còn làng Đồ Sơn xưa thuộc tổng Đồ Sơn, huyện Nghi Dương, thời nay thuộc quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng)
15-
Núi Đôi anh đã vượt qua
Còn muốn xuống tắm dưới đà Đồ Sơn
(Tiếng Hán từ Đối (對), nghĩa là cặp, vì ở trên Sóc Sơn – Hà Nội gọi là núi Đôi rồi, nên ở Kiến thụy mới gọi là núi Đối để đỡ nhầm lẫn, chứ hai từ đó giống nhau. Còn 20 ngọn núi ở An Lão, Kiến An, Kiến Thụy và Đồ Sơn thời cổ đều gọi là đồ sơn, tức núi đất)
16-
Đồ Sơn - Núi đất
Đồ Hải - Biển bùn
Ngọc Tuyền – Suối báu
(Ba làng Đồ Sơn, Đồ Hải và Ngọc Tuyền xưa thuộc tổng Đồ Sơn, huyện Dương Kinh, thời nay thuộc quận Đồ Sơn. Nếu dịch từ chữ Hán ra có nghĩa là núi Đất, biển Bùn và suối Báu. Cư dân nơi đây có trò chơi chọi trâu khá nổi tiếng)
17-
Tam Đảo phía Bắc
Gốc gác Đồ Sơn
(Tam Đảo bên kia biên giới Việt Trung thời nay gồm 3 đảo là Vạn Vỹ, Vu Đầu và Sơn Tâm, trước năm 1887 thuộc thực địa của châu Vạn Ninh nước ta và theo Hiệp định Pháp Thanh thì thực dân Pháp đã “bán” 5 tổng phía Bắc, trong đó có 3 đảo này cho nhà Thanh, thời nay thuộc Thành Phòng Cảng, Quảng Tây. Theo gia phả của dân đảo Vạn Vỹ thì họ di cư từ vùng Đồ Sơn tới đây vào năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) đời vua Lê Tương Dực. Tới nay họ vẫn duy trì nói tiếng Việt, dùng nước mắm và thích ăn bánh đa vừng).
19-
Nhất lưới dài
Nhì chài rộng
20-
Đi biển nhớ phương
Đi đường nhớ hướng
21-
Ra khơi mới biết nông sâu
Ở trong kênh rạch biết đâu mà dò
22-
Làm nghề cả năm
Không bằng trổ xăm tháng tám
(Bốn câu ca trên là kinh nghiệm đánh bắt thủy hải sản của ngư dân tổng Đồ Sơn, thời nay thì những người đi biển đã giảm đi rất nhiều, chỉ còn một ít cư dân nơi đây theo nghề)
NGỌC TÔ (Sưu tầm)
(Còn nữa)

