VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Những bài khác
Phạm Xuân Nguyên qua phê bình văn học
Mừng cho Nguyên văn 1 đã ra đời, tôi muốn nói lại: Hãy để mỗi người được viết đúng mình, là mình.Phạm Xuân Nguyên qua phê bình văn học
(Lưu Khánh Thơ)
Là đồng môn, đồng nghiệp của Phạm Xuân Nguyên hàng chục năm nay, tôi đã đọc khá nhiều bài viết về chân dung của Nguyên. Nghiêm túc, suồng sã, "biếm họa"… đều có cả. Nguyên hiện diện trong làng văn nước nhà với nhiều tư cách: nhà phê bình, dịch giả, nhà báo, người dẫn chương trình cho các buổi ra mắt sách, giới thiệu tác giả, tác phẩm.
Dăm năm trở lại đây lại thêm một chức danh thật "oách" Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội. Đồng nghiệp ở Viện Văn học và hầu hết những người trong giới đều biết hai câu thơ chân dung: Viện Văn có một Phạm Xuân/ Nguyên là cán bộ cử nhân phê bình. Phạm Xuân Nguyên có nhiều ưu thế để trở thành một cây bút nghiên cứu phê bình chuyên nghiệp: được đào tạo cơ bản, thông minh, nhanh nhạy với cái mới, có khả năng tự học cao để làm chủ một vốn liếng ngoại ngữ đáng nể phục… Vậy mà đến bây giờ, khi đã quá tuổi "ngũ thập tri thiên mệnh", bạn đọc mới được cầm trên tay cuốn sách viết đầu tiên của Nguyên sau hơn 30 năm dấn thân vào con đường nghiên cứu phê bình. Dù rằng Phạm Xuân Nguyên đã là dịch giả của hàng chục đầu sách có tiếng vang.
Nhà văn như Thị Nở (Nhã Nam & Nxb HNV, 2014) - tên gọi cuốn sách phê bình văn học đầu tiên của Phạm Xuân Nguyên thật… không giống ai. Một lần nữa, nó lại cho thấy sự khác người của Phạm Xuân Nguyên - một kiểu nhân vật "nghịch dị" trong làng phê bình văn học Việt Nam. Cũng vì muốn giữ tên gọi này, mà cuốn sách nghiên cứu phê bình của Phạm Xuân Nguyên đáng lẽ được ra đời từ năm 1993 (tập hợp những bài viết cho đến thời điểm đó) hôm nay mới xuất hiện. Điều đáng nói trước tiên ở cuốn sách này là từ chân dung của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình văn học, Nguyên đã tự họa nên chân dung của chính mình, như một cách thế hiện diện trong đời sống phê bình văn học nước nhà. Và chính ở đấy, bạn bè, người đọc sẽ thấy một cách đầy đủ, trọn vẹn chân dung của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Tôi không dám chắc đã đọc hết nhưng cũng có thể nói là đã đọc khá nhiều các bài viết phê bình văn học của Nguyên in rải rác trên sách báo trong nhiều năm qua. Giờ được tập hợp lại trong cuốn sách, suy nghĩ và cảm nhận về các bài viết đó càng rõ nét và nhất quán hơn. Từ vị trí và tâm thế của một nhà phê bình, với cách phát hiện vấn đề tinh nhạy, sự phân tích sắc sảo, với tinh thần phản biện thẳng thắn, thể hiện chủ kiến riêng, Nguyên đã mang đến cho các bài viết của mình một vẻ riêng. Không ít những bài phê bình của Nguyên có sức hấp dẫn và giá trị bởi đã hội được tư duy khoa học sắc và cảm xúc thẩm mỹ tinh. Nhưng một điều cũng dễ nhận thấy ở cuốn sách sự tản mạn, chất lượng không đều nhau trong các bài viết, giữa các tác giả. Phương pháp phê bình của Phạm Xuân Nguyên mạnh về trực cảm hơn là lập thuyết.
Bố cục cuốn sách được chia làm hai phần. Phần I: Người của hôm qua - về các tác giả đã mất. Phần II: Người của hôm nay - về những người đương thời. Trong mỗi phần thứ tự sắp xếp theo năm sinh của tác giả. 51 gương mặt được khắc họa trong cuốn sách với dấu ấn và đóng góp khác nhau nhưng đều là những tác giả có vị trí và tên tuổi trong nền Văn học Việt Nam hiện đại. Tác giả mở đầu tập sách là Thế Lữ sinh 1907, và sau cùng là Vi Thùy Linh sinh 1980. Khoảng cách thời gian là hơn 70 năm, đủ ôm trùm 4 thế hệ nhà văn Việt Nam. Tuy còn thiếu vắng một số gương mặt tiêu biểu làm nên diện mạo của một nền văn học, nhưng với những gì đã có, cuốn sách đã cho thấy bức tranh đa diện, nhiều màu sắc của đời sống văn chương trong một thời kì nhiều biến động.
Do cái "tạng" của nhà phê bình, do tính chất của các bài viết trong tập sách nên khó tìm thấy ở đây chân dung đầy đủ, hệ thống chuyên sâu về sự nghiệp và con đường sáng tạo của một tác giả. Hầu hết các bài viết đều chỉ tập trung vào một vấn đề, vào những điểm nhấn quan trọng làm nên phẩm chất văn, phẩm chất người của nhà văn. Nhưng điều đáng nói ở đây là nhiều khi một vấn đề, một điểm nhấn đó lại có sức khái quát thành tựu của cả một đời văn, khắc họa được cá tính sáng tạo của đối tượng phê bình một cách sinh động và cuốn hút.
Khát vọng thành thực - đó là bài viết về Hoài Thanh, cây bút phê bình tài năng nhất của phong trào Thơ Mới. Khi đặt tên cho bài viết này, có lẽ Nguyên đã được gợi ý từ một tiểu luận của Hoài Thanh có nhan đề "Thành thực và tự do trong văn chương" (1939). Ở đây, Nguyên đã tuyên ngôn như một định hướng cho ngòi bút phê bình của mình: "Thành thực nên thẳng thắn. Khi sáng tạo cũng như khi tranh luận, dám hết mình, dám đi đến tận cùng mọi suy nghĩ, cảm xúc. Nói và viết không phải vòng vo, che chắn, không sợ xuyên tạc, bóp méo. Thành thực nên tin tưởng. Tin ở những điều mình nói, tin ở người khác hiểu mình. Bầu khí hậu văn học 1932 - 1945 là như thế - khí hậu thành thực. Không được nuôi dưỡng trong bầu khí hậu đó, tôi chắc, văn học thời ấy đã không có được thành tựu rực rỡ để lại về sau như đã có."(tr.31) Theo tôi, đây cũng là một trong số những bài viết đáng chú ý của cuốn sách. Ở đó tập trung khá nhiều điểm mạnh trong bút lực của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên: tinh thần phản biện thẳng thắn, cảm xúc nồng nhiệt nhưng vẫn giữ được tính khách quan khoa học. Bài viết không chỉ đánh giá, khẳng định thành công của Thi nhân Việt nam và tài năng của Hoài Thanh, phân tích sâu sắc bi kịch tự nhận thức của con người, mà còn nhìn lại thực chất vấn đề của cuộc tranh luận "Nghệ thuật vị…" ở độ lùi thời gian hơn sáu mươi năm sau. Những cách hiểu cứng nhắc, có lẽ do yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ đã vô tình đẩy đồng minh sang chiến tuyến bên kia từ một cuộc tranh luận văn chương. Cùng với Hải Triều nhìn từ hôm nay - một bài viết đánh giá cao đóng góp của nhà phê bình Macxít Hải Triều cho nghệ thuật và văn chương cách mạng, Phạm Xuân Nguyên đã góp phần "minh oan" cho Hoài Thanh với thái độ khoa học nghiêm túc, thuyết phục.
Viết về những tác gia lớn, những cây đại thụ của văn học Việt Nam, mà số lượng các bài viết về họ lên đến con số hàng trăm, Phạm Xuân Nguyên luôn cố gắng tìm cho mình một cách tiếp cận riêng. Với Nam Cao, anh quan sát và phân tích quá trình nhà văn đi tìm một chủ nghĩa hiện thực mới, hoặc nói cụ thể hơn là tìm hiểu quá trình lựa chọn vào nghề văn của Nam Cao. Điều này sẽ là tìm hiểu quá trình vì sao ông lại trở thành Nam Cao với tư cách nhà văn của một kiểu chủ nghĩa hiện thức khác trong văn học Việt Nam có nhiều nét tương đồng với chủ nghĩa hiện thực cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX trong văn học thế giới. Với Nguyễn Đình Thi, một "ông quan" văn nghệ, về chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I, 1946), Tổng thư kí Hội Nhà văn lâu nhất (1958 - 1989). Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực và để lại dấu ấn. Về cuộc đời, ông cũng lại được chữ đa: đa tình, đào hoa. Nhưng, Nguyên không đi vào khai thác những thế mạnh đó, mà anh "chạm" vào những thời điểm khi ông là Người cô đơn. Cô đơn năm 1949, khi ông làm thơ tự do bị đưa ra phê phán tại hội nghị tranh luận Việt Bắc. Cô đơn hồi những năm 1970, khi cô Phượng của tiểu thuyết Vỡ bờ bị đem ra mổ xẻ. Cô đơn năm 1980, kỉ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi, ông viết vở kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan chỉ diễn được một lần rồi thôi. Kịch ông hầu như vở nào cũng bị vướng. Cô đơn năm 1993, khi nhà triết học Trần Đức Thảo mất ở Pari, ông ở Hà Nội viết bài tưởng nhớ… Cô đơn "che giấu một nỗi xô lệch trong lòng". Với Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên bị mê hoặc bởi những trang viết của nhà văn về Hà Nội. Nhà phê bình thấy: "Ông đã viết nhiều về Thăng Long - Hà Nội, nhưng hình như điều sâu xa nhất ông vẫn chưa nói hết, nói trọn, nói xong. Ông ra đi, mang theo tất cả những trăn trở và ước vọng của một người con Hà Nội, một con người Hà Nội và một nhà văn Hà Nội cho xứ kinh kỳ - kẻ chợ đẹp hơn lên, văn hóa hơn lên, phong phú hơn lên, cả trên mặt giấy và trong hồn người. Tưởng như bất cứ cái gì đụng đến Hà Nội hôm qua, hôm nay, và ngày mai, vẫn khiến ông xúc động và lo lắng, dù đã tan vào cõi thinh không nửa thế kỷ này. Và những con chữ trên trang viết của ông về Hà Nội, cho Hà Nội, vì Hà Nội đọc lên dịp nghìn năm Thăng Long vẫn thấy động cựa, xôn xao."(tr.79). Và Nguyên bị ám ảnh hơn cả với suy nghĩ của tác giả được gửi gắm ở câu cuối cùng trong lời tựa vở kịch Vũ Như Tô: "Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm."
Với Chế Lan Viên, Nguyên đã thử đi tìm một câu trả lời cho Người giấu mặt. Con đường thơ của Chế Lan Viên đi từ tháp Chàm đến tháp Bayon bốn mặt, giấu đi ba, còn lại đấy là anh/ chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc/ làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình.
Ngòi bút phê bình của Phạm Xuân Nguyên thường tỏ ra nhạy bén với những các "khác lạ". Nguyên chủ trương một cách đọc mới với những đối tượng không còn mới. Bích Khê, "Thi sĩ thần linh" - "thơ lõa thể" là một bài viết có khá nhiều ý tưởng mới. Chân dung nàng thơ của Bích Khê luôn được thi nhân trình bày ở dạng lõa thể. Điên - loạn - dâm, là đặc trưng của "trường thơ Bình Định" với nghĩa bộc lộ hết mình, cả thể chất và tinh thần trong cơn sáng tạo quyết liệt. Do đó, đọc thơ họ, một nhà phê bình tinh tế, nhạy cảm như Hoài Thanh cũng có khi chịu bó tay. Ông "mệt lả" khi theo Hàn Mặc Tử. Với thơ Bích Khê ông thú nhận là đành "kính nhi viễn chi". Hơn 60 năm sau, đọc Bích Khê, Nguyên nhận thấy thơ lõa thể là phép thơ riêng của Bích Khê. "Một phép thơ đã để lại những lời thơ đâỳ hơi hám, nghĩa là có mùi vị, nghĩa là không bị tiệt trùng, nghĩa là sống, mà Bích Khê tin chắc là tay khách đa tình sẽ chuyển trao. Niềm tin của ông đã thành sự thực. Thơ lõa thể của ông một thời gian dài bị im lặng, nay được đem ra đọc, và còn nói được nhiều điều cho thơ và các nhà thơ hôm nay."(tr.114)
35 chân dung văn học góp mặt ở phần này có những cách hiện diện khác nhau trong đời sống văn chương học thuật nước nhà. Họ đã được tái hiện với nhiều góc độ nông sâu khác nhau qua con mắt của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên. Như đã nói, dung lượng và chất lượng các bài viết không đồng đều. Đó cũng là điều thường thấy trong các cuốn sách kiểu này. Có bài chỉ như một lát cắt, nói đến một tác phẩm cụ thể (Thâm tâm - Tống biệt hành; Xuân Quỳnh - Con yêu mẹ bằng con dế, Nguyễn Tuân - Một bài thơ Điện Biên,…). Có bài chỉ đề cập đến một mảng nhỏ trong thành tựu sáng tạo phong phú của một đời văn (Nam Trân dịch Boris Polevoi, Tố Hữu với việc dịch một số bài thơ nổi tiếng của P.Verlaine, Simonop, Aragon). Có một số bài viết sâu kĩ, có tầm khái quát về sự nghiệp của tác giả (Thế Lữ, Xuân Diệu, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Khải, Vũ Bão, Nguyễn Đức Thọ…). Điều đáng quý là ở những bài viết mang tính chất đề dẫn cho các cuộc Hội thảo, Tọa đàm về tác giả cũng đã cho thấy một năng lực cảm nhận văn chương tinh tế và thái độ trân trọng đối với những di sản của nền văn học dân tộc (Trần Huyền Trân - Tiếng thơ của khát vọng đổi gió, Trương Tửu - Người là bách khoa, Quang Dũng - Những mùa xanh)…
Phần viết về người đương thời chiếm số lượng ít hơn, gồm 16 tác giả. Trong đó có 4 tác giả được xuất hiện hai lần qua hai bài viết là Tô Hoài, Bùi Ngọc Tấn, Mai Văn Phấn và Vi Thùy Linh.
Tôi rất ấn tượng với bài Nhà văn, và hắn. Đây là lời bạt cho tập truyện ngắn Người chăn kiến của Bùi Ngọc Tấn, NXB Hội Nhà văn, 2010. Qua việc luận bàn về Hắn, đại từ nhân xưng chỉ một loại người mà gói trọn những thăng trầm dâu bể của một kiếp người cầm bút viết văn. Nhà phê bình nhận định: "Bùi Ngọc Tấn đã là một trong những người trước nhất khai sinh lại cho "hắn", cấp lại cho "hắn" một lý lịch, và thả "hắn" văn học vào đời…Đọc Bùi Ngọc Tấn, truyện ngắn và tiểu thuyết, vì vậy, hãy đọc theo HẮN. Cũng như theo HẮN để đọc Nguyễn Khải, Tạ Duy Anh."(315). Sức nặng của bài viết được nhân lên bởi những liên tưởng, so sánh sắc sảo, đầy suy tư chiêm nghiệm. Và đồng thời cũng thấy rõ hơn quá trình viết là để phục sinh.
Những bài viết về thơ Mai Văn Phấn, thơ Vi Thùy Linh, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh… cũng có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa năng lực thẩm bình tinh tế với những luận cứ khoa học rành mạch (dù đôi chỗ không tránh khỏi cực đoan).
Một ưu thế nữa trong phê bình văn học của Phạm Xuân Nguyên là do anh là người đi nhiều, tiếp xúc nhiều. Không chỉ đến với đối tượng phê bình qua văn bản (điều quan trọng nhất) mà Nguyên còn là người đồng cảm, chia sẻ với số phận đa đoan của người cầm bút. Đặc biệt là với những số phận không may mắn trong trường văn trận bút. Thật độc đáo với những lời ghi trong sổ tang. “Cái quan định luận”, chỉ đôi dòng ngắn ngủi mà khái quát khá đủ đầy sự nghiệp của cả đời văn, mà gói trọn những thăng trầm của một kiếp người. Nguyên viết về Nguyễn Hữu Đang: “ Ông Nguyễn Hữu Đang là ai?
Ông truyền bá quốc ngữ
Ông tổ chức ngày độc lập 2/9/1945
Ông làm Nhân Văn – Giai phẩm
Ông đã sống và đã chết Một Con người
“ Mỗi số phận chứa một phần lịch sử”
Nền dân chủ tự do của nước Việt sẽ có ghi tên Ông”.
Về Trần Dần: “Ngày đưa tang ông tôi mới gặp ông. Muộn rồi.
Vườn hoa vô ý
Cặp đùi vô lý
Ngôi sao vô vị
Phố dài vô lễ
Chiều xanh vô nghĩa…
Nhưng còn cả đấy: vợ con ông, bạn bè ông, những người hoạn nạn cùng ông, những lớp người thơ tiếp bước ông. Còn đấy phần di cảo im lặng chờ người tri âm. Và như thế tôi đã được catharsis một lần để dẫu cách một ô vuông kính gặp ông bình tâm nói với ông:
Tôi học nơi ông một cách Sống
Tôi sống nơi ông một dòng Thơ
Tôi thờ nơi ông một Con Người
(Lời ghi sổ tang). “
Và đây là về Phùng Quán: “Ngày ông nằm xuống, thắp nén hương trước quan tài ông xong, tôi ngồi với quyển sổ tang ngổn ngang bao điều chẳng thể viết ra. Bất ngờ, như cuộc đời ông đã định và tôi chỉ việc ghi lại cho ông thôi: “Vượt Côn Đảo không quên lời mẹ dặn / Dẫu tuổi già vẫn dữ dội tuổi thơ”. ”
Giọng điệu phê bình của Nguyên khá linh hoạt, thích hợp với các dạng bài khác nhau, không loại trừ cả việc tạo ra những cuộc đối thoại, trò chuyện giả tưởng với tác giả (Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính), nhân vật (trò chuyện cùng Đặng Trần Tự - nhân vật trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng). Công việc của nhà phê bình là từ văn bản gốc của nhà văn tạo ra văn bản của mình. Nhưng nghĩ đến cùng, “những suy nghiệm về văn chương là gì nếu không phải là những suy nghiệm về cuộc đời, về con người, về mọi lẽ nhân sinh quanh ta, và trong ta”. Trong bài về Vi Thuỳ Linh, Nguyên đã viết: Hãy để mỗi người được sống đúng mình, là mình. Mừng cho Nguyên văn 1 đã ra đời, tôi muốn nói lại: Hãy để mỗi người được viết đúng mình, là mình.
--
28/3/2014
Theo Vietvan.vn
Các tin khác
-
MỘT ĐỜI NGƯỜI CHỈ CÓ MỘT QUÊ...
-
Người Thái Bình - đất Thái Bình qua ca dao, tục ngữ .
-
“Bà cô bên chồng” của nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến
-
NHÃ CA, NGƯỜI ĐÀN BÀ NÀO CŨNG ĐẸP
-
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư kể chuyện “Tro tàn rực rỡ” từ tác phẩm văn học lên phim
-
CA SĨ KHÁNH LY BẤT BÌNH VÌ NHIỀU ĐOẠN TRONG PHIM “EM VÀ TRỊNH”
-
TẢN MẠN CHUYỆN NGHỆ DANH CỦA CÁC “SAO” VIỆT
-
VỀ HAI CÂU THƠ thẾ lỮ MƯỢN CỦA KỸ NỮ
-
VÀI CẢM NHẬN KHI XEM PHIM BỐ GIÀ (WEB DRAMA) CỦA TRẤN THÀNH
-
CÓ MỘT THỜI ĐẠI THI CA