VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
văn xuôi
VỀ HAI NGÔI MỘ KHÔNG CÓ THÂN TẠI VƯỜN AO DƯƠNG
Ngày 9/6/Ất Mùi (2015), tại thôn Hạ đồng, nhà ngoại cảm Bùi Thị Hiền cùng các người dân khai quật tại vườn nhà hai ngôi mộ,VỀ HAI NGÔI MỘ KHÔNG CÓ THÂN TẠI VƯỜN AO DƯƠNG
VÀ LỊCH SỬ ĐẶC BIỆT CỦA THÔN HẠ ĐỒNG, HUYỆN VĨNH BẢO
Ngày 9/6/Ất Mùi (2015), tại thôn Hạ đồng, nhà ngoại cảm Bùi Thị Hiền cùng các người dân khai quật tại vườn nhà hai ngôi mộ, một ngôi thấy một chiếc tiểu sành, một ngôi thấy một chiếc nồi đất nung. Kỳ lạ thay, hài cốt trong cả hai ngôi chỉ là hai chiếc đầu lâu không có thân mình. Sau khi khai quật, mọi người di chuyển sang các vị trí khác gần đó, xây cất lại tử tế và thắp hương khói phụng thờ.
Sau đó qua tâm linh được biết chiếc đầu lâu trong tiểu sành là của ông Nguyễn Đức Cảnh, nguyên Bí thư Thành ủy Hải Phòng, quê ở Thái Thụy - Thái Bình. Chiếc đầu lâu thứ hai trong nồi gốm là của ông Hồ Ngọc Lân, thuộc cấp của ông Cảnh, quê ở Bắc Ninh, cả hai ông bị giặc Pháp xử tử bằng máy chém tại Hải Phòng vào tháng 7 năm 1932.
Thì ra câu chuyện này có liên quan tới một nhân vật rất quan trọng, đó là ông Nguyễn Văn Ngọ, bởi hai ngôi mộ trên từ lâu đã được đặt trong vườn nhà lão thành cách mạng Nguyễn Văn Ngọ.
Ông Nguyễn Văn Ngọ sinh năm 1906 tại thôn Hạ đồng, xã Cộng Hiền huyện Vĩnh Bảo, gia nhập Đảng vào tháng 8 năm 1929. Ông là Ủy viên xứ Ủy Bắc Kỳ và vào năm 1930 được Trung ương Đảng điều về Thái Bình chỉ đạo phong trào nông dân khởi nghĩa. Từ 1946 làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh, sau đó là Bí thư kiêm Chủ tịch UBHCKC tỉnh Thái Bình. Năm 1953, ông làm Giám đốc Sở Tư pháp Liên khu III. Năm 1954, ông được Trung ương cử đi công tác và hy sinh tại Trung Quốc ngày 04/06/1954. Ông được an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ Bát Bảo Sơn, Bắc Kinh, Trung Quốc. Đến tháng 4 năm 1994 hài cốt được Tổng Bí thư Đỗ Mười chỉ đạo và giao cho Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm tổ chức đưa hài cốt của ông về nước và an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Vợ ông cũng là nhà cách mạng tên là Triệu Thị Đỉnh, sinh năm 1912, quê ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 6/1930. Chính bà là người giới thiệu và kết nạp ông Đỗ Mười vào Đảng cộng sản Việt Nam. Bà ba lần bị địch bắt ở Hải Phòng và bị giam trong nhiều nhà tù khác nhau.
Nguyễn Đức Cảnh là người làng Diêm Điền, tổng Hổ Đội, huyện Thụy Anh (nay là thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy), tỉnh Thái Bình, được ông Trần Mỹ (họ Trần Cổ Am), bạn học của cha, là tri phủ Hoài Đức - Sơn Tây, nhận làm con nuôi và cho đi học trường Hương học. Sau khi học xong bậc tiểu học, ông kết thân với một số bạn bè trẻ tuổi, trong đó có Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), Đặng Xuân Thiều, Nguyễn Văn Ngọ. Tháng 2 năm 1928, ông được phân công làm Ủy viên Kỳ bộ Thanh niên Bắc Kỳ, phụ trách khu Duyên hải
Trong những ngày còn ở quê mẹ tại Cổ Am Vĩnh Bảo, ông Nguyễn Đức Cảnh chơi thân với ông Nguyễn Văn Ngọ, kết bạn tri giao, vì cả hai cùng một chí hướng, Gia thân của hai người đều rất quý và tôn trọng sự lựa chọn đường đi của hai thanh niên yêu nước.
Tháng 4/1930, ông trực tiếp làm Bí thư Đảng bộ Hải Phòng và sau đó làm Bí thư Xứ uỷ Bắc kỳ. Đến tháng 4/1931 bị địch bắt, kết án tử hình. Sáng ngày 31/7/1932, ông bị thực dân Pháp sát hại cùng với đồng đội Hồ Ngọc Lân trước cửa Đề lao Hải Phòng (nay thuộc quận Lê Chân, hải Phòng).
Năm 1932, ông Nguyễn Văn Ngọ còn đang bị giam, được tin ông Cảnh sắp bị xử tử, liền cho gọi cấp dưới tới để dặn dò. Cấp dưới của ông khi đó là Ông Chí, ông Đức, ông Tề (tên gọi theo mật danh). Ông Chí , ông Đức người Ninh Giang, Hải Dương, riêng ông Tề người làng An Quý cạnh thôn Hạ Đồng với ông Ngọ. Cả ba người đều thành viên của Quốc dân đảng. Ông Tề lúc đó đang làm công nhân cho Pháp ở Đài Thiên văn Phù Liễn, Kiến An. Ông Ngọ nói với các thuộc cấp rằng:
- Tớ nhờ các cậu theo dõi giúp hôm chúng xử chém cậu Cảnh để biết thi hài của nó được giấu ở đâu, nay mai nếu có may mắn thoát được ra, mình phải đưa thi hài của ông ấy về cho bà mẹ, từ lâu mình coi bà cụ cũng như mẹ mình. Cảnh mất đi, bà cụ chắc buồn lắm. Các cậu hết sức giúp mình nhé?
.
.Ảnh ông Nguyễn Đức Cảnh
.
Ảnh chân dung ông Nguyễn Văn Ngọ.
Ngày 31/7/1932 thực dân Pháp xử án công khai tại bờ sông Tam Bạc, dùng máy chém chém hai ông Cảnh và Lân. Để thị uy, chúng còn treo đầu hai ông lên cây cột cho quân canh giữ ba ngày để đàn áp tinh thần dân chúng. Thân hai ông bị chúng nhét vào một cái hòm đạn bằng gỗ mang chôn ở cánh đồng gần phố Dinh, nay là phường Trần Nguyên Hãn. Sau này người ta mở làng, mở phố, chuyển các hài cốt nơi đây về nghĩa địa An Dương 2, nơi có Nhà máy giày Thống Nhất bên Tam Quán. Nghe người dân nói, khi chuyển hài cốt lần trước, người ta phát hiện ra hai thi thể không đầu được đặt trong chiếc hòm đựng đạn bằng gỗ, họ cho rằng đây là người cách mạng mới không có đầu, bèn mua hai tiểu sành, cho hai bộ hài cốt vào hai tiểu đó, đặc biệt khi mai táng, họ cố tình lật úp hai cái tiểu xuống, làm vậy để đánh dấu, cho khác với các tiểu khác, biết đâu sau này chẳng có người nhà cần tìm.
Ngày 22/08/2007 đoàn các nhà ngoại cảm trong đó có nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng theo đề nghị của chính quyền hai tỉnh Hải Phòng và Thái Bình tới địa điểm Nhà máy giày Thống Nhất để tìm hài cốt ông Cảnh và ông Lân. Cuộc tìm kiếm diễn ra không ít khó khăn, nhờ vào tâm linh, các nhà ngoại cảm đã xác định được nơi chôn cất của hai thi thể không đầu. Ngày 22/08 đoàn đã phát hiện ra hai chiếc tiểu được chôn úp ngược tại đây, trước sự mừng rỡ của mọi người. Hai bộ hài cốt được đưa về Bảo tàng Hải Phòng, quàn 45 ngày chờ xét nghiệm. Ông Lân ở Bắc Ninh không còn người thân, ông Cảnh còn người thân, nên việc xác định AND khá dễ dàng. Sau khi xác định được một trong hai bộ hài cốt là của ông Cảnh, chính quyền hai tỉnh Hải Phòng và Thái Bình đã tổ chức lễ hồi hương cho thi hài hai ông. Thi hài ông Nguyễn Đức Cảnh được đưa về khu tưởng niệm Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, thị trấn Diêm Điền, còn thi hài ông Hồ Ngọc Lân đưa về Nghĩa trang liệt sỹ ở Bắc Ninh. Chúng ta đều biết, công việc này không có sự giúp đỡ của các nhà ngoại cảm, không dựa tâm linh thì không bao giờ làm được.
Lại nói về hai chiếc đầu lâu của ông Cảnh và ông Lân, sau khi phơi thị uy trên cột, chiều tối ngày thứ ba, tên đội Long, người Kiến An là kẻ nát rượu, mang hai túi vải tới, bỏ hai cái đầu lâu vào hai túi vải, lợi dụng đêm tối, hắn liền vứt tõm xuống sông Tam Bạc, xong về lĩnh thưởng lấy tiền uống rượu. Cũng vào lúc đó, các ông Chí, ông Đức, ông Tề là thuộc cấp của ông Ngọ không ngừng mật phục theo dõi. Sau khi bọn giặc rút hết, ba ông liền lội xuống sông, mò được hai chiếc túi vải đựng đầu của hai ông, Cảnh và Lân mang về đồi Thiên văn - Phù Liễn, nơi ông Tề làm công nhân ở đó tạm giấu, chờ ông Ngọ ra tù về xử lý.
Năm 1937, ông Ngọ được ra tù, ông nghĩ ngay tới việc của ông Cảnh, ông liền gọi ba người kia tới hỏi sự tình, ông Tề cho biết đã mang được đầu của hai ông về giấu một nơi an toàn, còn nơi chôn thân, sau mấy năm không tới, bây giờ lẫn chỗ, không nhớ được. Ông Ngọ mừng nói, tìm được hai cái đầu cũng là tốt lắm rồi. Bốn ông ngồi bàn kế hoạch đưa hai cái đầu lâu về vườn nhà ông Ngọ cất giấu, tình hình lúc đó chưa thể hồi hương cho hai liệt sĩ. Công việc hết sức bí mật, đi vào ban đêm.Vào một đêm cuối năm Đinh sửu (1937), bốn người gồm ông Ngọ, ông Tề, ông Đức, và ông Chí mang hai đầu lâu của ông Cảnh và ông Lân từ đồi Thiên Văn Kiến An về mai táng tại khu vườn của nhà ông Ngọ. Trước đó, ông Ngọ đã chuẩn bị một chiếc tiểu sành và một nồi đất nung (địa phương gọi là nồi chân). Ông Ngọ nói làm thế để sau này tất phải di dời lần nữa, có thể phân biệt được hai người, cậu Cảnh đề nghị cho vào tiểu sành, cậu Lân cho vào nồi chân, có bị thiệt thòi một chút, cũng không sao, vì đây chỉ là chôn tạm, chờ tới khi có điều kiện sẽ hồi hương cho hai bạn đàng hoàng.
Sau đó mọi người chia tay, ông Ngọ cho biết sắp phải đi công tác xa, ông Chí, ông Đức về Hải Dương, hai ngôi mộ giao cho ông Tề, người làng bên, thỉnh thoảng về quê qua thăm kiểm tra giúp.
.
Bia Liệt sỹ Nguyễn Văn Ngọ tại Bát Bảo Sơn - Bắc Kinh - Trung Quốc
Hai ngôi mộ không đầu cũng vì thế mà yên vị tai vườn nhà ông Ngọ. Ông Chí và ông Đức vì là thành viên quốc dân Đảng nên sau đó bặt tin tức. Ông Tề trong những năm cải cách, vì là thành phần quốc dân đảng, nên sợ quá giấu bặt mọi hoạt động của mình, không dám lai vãng tới khu vườn nhà ông Ngọ nữa. Ngay cả đến lúc chết, ông cũng không dám nói với con cháu của mình về vụ ông Cảnh, ông Lân.
92 năm qua, thi thể của hai ông Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân chưa được hoàn cốt. 87 năm qua, hai chiếc đầu lâu của hai ông vẫn nằm ở vườn nhà ông Ngọ, nay là vườn nhà ông Trần Rường, nguyên Bí thư huyện ủy Vĩnh Bảo, cũng là vườn nhà bà Bùi Thị Hiền, con dâu ông Trần Rường. Bà Hiền cũng là người có khả năng ngoại cảm sau khi bị sét đánh chết đi sống lại vào năm 2006. Chính bà đã đã dùng khả năng ngoại cảm của mình giúp nhân dân tìm được hàng trăm hài cốt liệt sĩ tại khắp miền đất nước, hàng chục gia đình có tổ tiên, ông, cha bị thất lạc mồ mả. Cũng chính bà đã phát hiện ra vùng đất Ao Dương, nơi cụ Trạng Trình đã chôn giấu hài cốt ba vị vua Mạc đời đầu cùng một số người thuộc Mạc tộc khác.
Mảnh đất thôn Hạ Đồng, là nơi có lịch sử khá đặc biệt, hiểu rõ về mảnh đất này ta mới hiểu tại sao gần 500 năm trước cụ Trạng lại chọn nơi này làm nơi ẩn táng cho cụ và ba vị vua đầu đời nhà Mạc, đó là vị Mạc Thái tổ (莫登庸 Mạc Đăng Dung), Mạc Thái tông (莫登嬴 Mạc Đăng Doanh), Mạc Hiển Tông (莫福海 Mạc Phúc Hải)
Thôn Hạ Đồng thời Mạc khi cụ Trạng Trình còn sống chưa có tên là Hạ Đồng, đó là bãi sình lầy, lau lác cách làng quê vợ cụ Trạng (Hà Dương) gần 2 dặm (gần 1km) không có người ở, dân trong vùng gọi là Trại Chiều (cái tên chung chỉ các bãi hoang). Trại Chiều nằm cạnh sông Dương (thời Mạc đổi tên là Bạch Đà) khá sâu và rộng, bên kia sông là Cống Hiền, nơi giao thương buôn bán sầm uất, còn bên này đồng trũng, lau lác rậm rạp, không có dân cư. Tại đây có một khu đầm rộng gần mươi mẫu, phía Đông giáp Bạch Đà (kênh Bạch), phía Tây có một gò cao, gọi là gò Yên ngựa, phía Nam có ngòi nước lớn dài mấy dặm chảy tới tận Đồng Minh, nghe nói ngày xưa thuyền chiến của quan quân nhà Trần cũng vào Bạch Đà và ngòi này mật phục đánh thủy quân nhà Nguyên trên sông Tô (cuối thế kỷ XIX là sông Hóa). Phía Bắc là khu vườn khá cao so với mặt đầm, mùa khô nổi hẳn lên, chỉ ngập khi mùa úng. Khu vườn có hình dạng con chim phượng thả mỏ xuống đầm uống nước (vườn phượng), đầm nước được người dân gọi là ao Dường (ao Trời), Cụ Trạng mật gọi là Ao Dương .
.
.
Khi về thăm quê vợ, Cụ Trạng không ít lần ra đây ngắm địa thế khu này, tả có Thanh Long (sông Bạch Đà), hữu có Bạch Hổ (gò Yên Ngựa). tiền có Chu Tước (vườn Phượng), hậu có Huyền Vũ (ruộng nước sình lầy). Đặc biệt Bạch Đà chảy qua nửa trên lại là ranh giới của hai huyện Tứ Kỳ và Vĩnh Lại nối mạch hai con sông lớn là sông Kim (nay là Thái Bình) và sông Tô (nay là sông Hóa), từ trên nhìn xuống, sông Kim và sông Tô cùng với Bạch Đà giống như hai con rồng ôm mặt trăng, thế lưỡng long tranh nguyệt. Cụ cho rằng nơi đây là một huyệt đạo trì phát (持發), (phải 500 năm sau mới phát lộ), vì vậy chọn nơi đây để ẩn táng cho ba vị vua Mạc đầu triều và cho bản thân cụ là hợp lý nhất. Nghĩ là làm, gần cuối đời cụ vào kinh diện kiến vua thứ năm nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp. Lần đó cụ trình bày với nhà vua hai việc quan trọng:
- Việc thứ nhất là khuyên nhà vua cử người lên Cao Bằng xây dựng thành quách, chuẩn bị lương thảo, cơ sở vật chất, một khi Thăng Long có biến có thể dời đô lên đó tính kế lâu dài. Nhớ quan hệ tốt với nhà Minh để làm chỗ dựa dẫm.
-Việc thứ hai là xin phép nhà vua được bí mật di dời long cốt của các vị Tiên Đế về vùng quê hẻo lánh, một khi quân giặc kéo đến cũng không thể tìm ra. Một là bảo vệ an toàn long cốt nhà vua, hai là sau này sẽ minh oan cho tiên đế. Cụ nói:
- Thần nguyện làm một tôi trung trông coi long cốt các bậc tiên đế khi thần còn sống, kể cả khi thần đã về với tiên tổ.
Nhà vua cảm động cởi chiếc áo bào đang mặc, lật vạt trong viết một bức mật chỉ cho quan coi tông miếu, xong việc khoác áo bào cho cụ, dặn cứ thế, cứ thế mà làm. Một mặt sai con thứ của Khiêm Thân Vương Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung (莫敬弓) mang 5.000 quân lên Cao Bằng, xây đắp thành lũy, chuẩn bị cơ sở vật chất cho kháng chiến . Nhờ đó, sau khi nhà Mạc bị đại bại ở Thăng Long, cha con vua Mạc Mậu Hợp, Mạc Toàn cùng với con trưởng của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Chỉ bị giết cuối năm Nhâm Thìn (dương lịch sang 1593). Một bộ phận chạy thoát lên Cao Bằng, Mạc Kính Cung tại Cao Bằng sau khi biết tin anh Trai cùng cha con vua Mạc Mậu Hợp bị giết, liền làm lễ xưng vương lấy niên hiệu là Càn Thống (乾統) tháng 3 năm Quý Tỵ (1593) Ngạn Quân Công, Thái phó Mạc Ngọc Liễn (莫玊璉) tiếp tục giương cờ kháng giặc. Vua Mạc Kính Cung cùng các con cháu nhà Mạc duy trì ở Cao Bằng thêm 90 năm (5 đời ) nữa nhà Mạc mới bị diệt hoàn toàn.
Lại nói Cụ Trạng về Dương Kinh (Cổ Trai ) gặp quan coi tông miếu trình mật chỉ và tiến hành công việc dời long cốt của ba vị vua, cho xuống thuyền theo đường sông trở về Ao Dương. Khi mất Cụ trạng dặn dò bí mật hung táng tại ven bờ tả ngạn sông Kim thuộc Tân Minh (nay là Tiên Lãng). 7 năm sau đúng năm nhà Mạc thất thế, tháng 3 năm Nhân Thìn (1592), bí mật mang hài cốt của người về ẩn táng chung với ba vị vua Mạc. Sau đó người học trò duy nhất biết sự việc đã tuẫn tiết để giữ gìn bí mật, vì vậy mà bí mật về Ao Dương còn giữ đến ngày nay đã gần 500 năm.
Cụ đã để lại câu ca về tọa độ Ao Dương cho đời sau: “Ba Ra trông sang, ba Đồng ngoảnh lại, táng tại Ao Dương”, đây là một bài toán đơn giản nhưng không thể giải được vì không đủ dữ kiện. Thời điểm cụ mất chỉ có 2 địa danh Ba Ra và Thượng Đồng, Ba Ra chính là ngã ba sông, hợp của hai đoạn cuối sông Tô (nay là sông Hóa) và sông Kim (nay là sông Thái Bình) đổ ra biển, nay gọi là Ba Giai. Thượng Đồng là thôn xưa thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, từ sau 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo, phủ Ninh Giang.
Gần 100 năm sau khi cụ Trạng mất, ở thôn Thượng Đồng sở Tây Tạ, tổng Bắc Tạ huyện Tứ Kỳ có gia đình ông Nguyễn Phú Thuận thuộc trưởng ngành 2 của họ Nguyễn Thượng Đồng (nay thuộc xã An Hòa huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) dẫn theo cả ngành 2 tới vùng trại Đồng khai hoang lập nghiệp. Lúc bấy giờ trại Đồng là thực địa tổng Hạ Am, huyện Vĩnh Lại, nhưng ngành 2 họ Nguyễn lại là dân huyện Tứ Kỳ. Những năm tiếp theo, dân nhiều nơi cũng kéo tới làm cho trại Đồng đông thêm. Năm 1698 ông Nguyễn Phú Thuận liền thay mặt dân làng trình quan huyện Tứ Kỳ xin thành lập thôn mới, lấy tên là Hạ Đồng, vì gốc của họ là Thượng Đồng. Hạ Đồng là vùng đất thuộc địa phận huyện Vĩnh Lại, nhưng dân cư lại thuộc huyện Tứ Kỳ, cho nên ít bị biến động.
Cụ Nguyễn Phú Thuận là Trưởng thôn đầu tiên của thôn Hạ Đồng tới nay cũng được trên 10 đời, cụ là tổ 7 đời của ông Nguyễn Văn Ngọ. Mộ của cụ Tổ họ Nguyễn được an táng bên bờ ao Dương rất gần mộ cụ Trạng . Vì có ngôi mộ đó, người dân sau này chôn cất thêm vào và thành bãi tha ma ngày một rộng lớn. Bố ông Trần Rường là người từ Nam Định tới, làm con nuôi cụ Nguyễn Phú Huynh (bố đẻ ông Nguyễn Văn Ngọ) vì thế anh em nhà ông Trần Rường, Trần Ròn được cụ Huynh chia đất cho (có cả bãi tha ma đó).
Vậy là gần 100 năm sau khi Cụ Trạng mất mới xuất hiện địa danh mang tên Đồng thứ 2. Bài toán vẫn chưa giải được, cho đến năm 1964, giai đoạn kháng chiến chống Mỹ lan tới miền Bắc, thôn Thượng Đồng xã An Hòa có hai xóm trên và dưới, xóm dưới tách ra lập thôn mới lấy tên là Hạ Đồng (An Hòa), đến thời kỳ này bài toán cụ Trạng đặt ra mới có đủ dữ kiện để giải đó là 3 Đồng. Thực vậy, nếu từ ngảnh Ba Ra ở phía Đông huyện, ta kẻ sang trái về phía Tây một đường (trông sang), từ Thượng Đồng, Hạ Đồng (An Hòa) kẻ một đường sang phải (ngoảnh lại) sẽ gặp nhau tại Hạ Đồng (Cộng Hiền), vậy, tọa độ Ao Dương đã rõ.
Nhưng Ao Dương bây giờ đã bị người dân san lấp gần hết, người dân đào đất của gò Yên Ngựa lấp Ao Dương lập thành ruộng vườn nhà cửa, đến nỗi Ao Dương bây giờ chỉ còn lại khoảng trên 100 m2. Trớ trêu thay lại là ao nhà ông Trần Rường (Dường), nguyên Bí thư huyện Ủy Vĩnh Bảo.
Quả là Kỳ lạ, trên bia đá của cụ Trạng được khắc và chôn giấu tháng 6 âm năm 1585 tại bờ đê thôn Thanh Trì xã Kiến thiết Tiên Lãng, cụ có ghi: “三帝埋婦里楊鄉下彤村”(Tam đế mai phụ lý Dương Hương Hạ Đồng thôn) ta cùng 3 vị vua về ẩn táng tại quê vợ ta là thôn Hạ Đồng. làng Lý Dương. Chứng tỏ cụ đã tiên đoán được 100 năm sau nơi đây có tên là Hạ Đồng. cũng như gần 500 năm sau sẽ xuất hiện Hạ Đồng thứ hai để tạo thành ba Đồng. Việc cụ tiên tri tên gọi nước Việt Nam từ 500 năm trước người ta vẫn nghi ngờ, nhất là những kẻ vô thần, không bao giờ tin vào tâm linh. Mong rằng qua sự việc này sẽ khai sáng cho không ít cái đầu vẫn tự phụ cho mình là sáng suốt, xưa nay vẫn nghi ngờ về tài tiên tri của cụ Trạng.
Chuyện về hai ngôi mộ chỉ có đầu , không có thân cho là của ông Nguyễn Đức Cảnh và ông Hồ Ngọc Lân tại vườn nhà ông Rường vẫn còn đó, vào các năm 2017, 2018, chúng tôi gồm các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu của Viện Ứng dụng tiềm năng con người, trong đó có Giáo sư khảo cổ học Nguyễn Lân Cường, Thiếu tướng nguyên Phó Tư lệnh Bảo vệ lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh Nguyễn Ngọc Lâm cùng nhiều nhà ngoại cảm muốn khai quật làm rõ và mong hoàn cốt cho hai ông Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân, nhưng đến nay vẫn chưa làm được. Âu cũng là do thiên cơ, bởi trước khi hoàn cốt cho hai vị này, cần phải làm sáng tỏ lai lịch của Ao Dương và phần mộ của cụ Trạng cùng 3 vị vua Mạc. Cần nói thêm Cụ Trạng không chỉ di dời long cốt của ba vị vua đầu triều Mạc mà còn di dời long cốt của vị vua thứ 4 là Mạc Tuyên Tông (莫福原 Mạc Phúc Nguyên) Hoàng hậu Nam Phương, phu nhân Uyển Nhân về khu nghĩa địa của họ Nguyễn Nhữ, nay là nghĩa trang Triều Cao bờ đê Thanh Trì xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng….
Vĩnh Bảo, ngày 10 tháng 1 năm 2014
Chú thích:
1-Trần Mỹ, người làng Cổ am (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) đậu cử nhân năm 1891, làm Tri phủ Hoài Đức, Sơn Tây nay là Hà Nội.
2- Huyện Vĩnh Bảo thành lập năm 1838 do lấy 5 tổng từ huyện Tứ Kỳ là Bắc Tạ, An Bồ, Viên Lang, Bắc Tạ, Can Trì và 3 tổng từ huyện Vĩnh Lại là Ngãi Am, Thượng Am, Đông Am. Đến 1890, Vĩnh Lại nhượng thêm 3 tổng nữa là Hạ Am, Kê Sơn, An Lạc và làng Chanh Chử cho Vĩnh Bảo. Ngay sau đó tổng Bắc Tạ tách ra làm hai là Bắc Tạ và Uy Nỗ, đến đây Huyện Vĩnh Bảo có tới 12 tổng (lục tổng khu trên và lục tổng khu dưới), trở thành một huyện lớn hơn cả huyện Vĩnh Lại. Vào thập niên 20 thế kỷ XX, huyện Vĩnh Bảo trở thành phủ Vĩnh Bảo tới 1945 và bỏ từ phủ.
3- Làng Dương, tức Hà Dương, quê vợ cả Cụ Trạng Trình, thời Mạc thuộc tổng Hạ Am, huyện Vĩnh Lại. Từ 1690 vùng đất trại Đồng của làng Dương lập thôn Hạ Đồng với các dân cư của huyện Tứ Kỳ, nên thôn Hạ Đồng trở thành một phần đất Tứ Kỳ nằm trong tổng Hạ Am, huyện Vĩnh Lại. Sự việc này kéo dài tới năm 1945 (255 năm). Đó cũng là điều đặc biệt của thôn Hạ Đồng so với các thôn khác.
4- Thôn Thanh Trì nay thuộc xã Kiến Thiết huyện Tiên Lãng, đầu cầu sông Hàn. Vùng đất khi cụ Trạng ở tuổi 70 đã đưa gia đình người con trai út là Nguyễn Ngọc Liễn sang nương nhờ bên ngoại họ Nhữ. Gọi là nương nhờ nhưng Cụ đã mua đất, làm nhà, tậu trâu, mua ruộng chứ không phải ở nhờ nhà ngoại. Cụ còn mua cả một vùng bãi ven đê sông Hàn, cụ gọi đó là Thiên Vực, tiếp giáp với làng Thanh Trì bây giờ, nói là dùng làm khu mộ phần của các con cháu họ Nguyễn sau này, dân làng không ai được xâm phạm, cụ mật gọi là khu Cửu nguyên (九原). Sau này mới biết Cụ đã bí mật di dời long cốt của vị vua thứ 4 nhà Mạc là Mạc Tuyên Tông (Mạc Phúc Nguyên) cùng với hài cốt của Hoàng hậu Nam Phương, và Uyển Nhân phu nhân về đó ẩn táng. Vào tháng 6 năm Ất Dậu 1585, cụ cho làm bia đá bí mật chôn ở khu này, đến thời gian thích hợp, cháu con sẽ tìm thấy nơi này, có hai bài sấm nhắc tới sự việc này:
- Bài thứ nhât có câu:
Bạch Vân hoàn thủy tứ bách niên
Tuyết giang lưu báu tác tả viên
Thiết nhật mộc lai tầm đích huyệt
Quy thử nguyệt triều thủ xà tiên
Ý nói cụ Bạch Vân sẽ trở lại sau 400 năm, khu vườn bên trái dòng sông Hàn lưu giữ các vật báu. Đến khi có cây cầu sắt bắc qua sông Hàn, thì con cháu sẽ phát hiện được bí mật này. Vào tháng 11 năm Tý có con rắn đầu đàn bị phế bỏ. Ý là sau 400 năm, những di vật của cụ để lại sẽ được phát lộ, đó các bia đá, các phần mộ của nhà vua Mạc ở khu Cửu Nguyên, bên trái bờ sông Hàn, nay là khu nghĩa trang Triều Cao, thôn Thanh Trì, xã Cấp tiến, Tiên Lãng, Hải Phòng . Khi xưa nghĩa trang này ở ven đê áp bờ sông, 400 năm qua dòng sông lở về phía Nam tới gần 1km, nơi này trở thành vườn của dân (vì giáp làng). Quả đúng thế, cây cầu Hàn nối hai bờ sông Hàn được hoàn thành vào năm 2017, thì năm 2018 tìm thấy hai bia đá của Cụ Trạng tại bờ sông thôn Thanh Trì gần cầu Hàn. Ở đây theo lời ghi có 3 ngôi mộ mà mới tìm thấy 2 bia đá, ngoài ra theo sơ đồ ghi trên bia đá khả năng có tất cả 5 chiếc, vậy tại đây còn giữ từ 1 đến 3 chiếc bia đá nữa. Các nhà ngoại cảm với sự hiển linh của Cụ, chắc chắn sẽ tìm thấy, các bia đá có giá trị như bộ “Cổ sử” của nước nhà, không thể mất được.
Vào tháng 11 năm Tý rắn đầu đàn sẽ bị tàn lụi, (thất thế), tháng 11 năm tý 2020 người tuổi rắn dự định lên ngôi bị loại. Chữ Tiên ở đây là tàn, điều này ai cũng biết rồi, không tiện nói ra cụ thể ở đây nữa.
- Bài thứ 2 chính là bài DI NGÔN CHÍ ghi tại bia đá tìm thấy năm 2018 tại nơi này
“Bạch Vân hoàn thủy tứ bách niên
Tuyết giang phần giữ hóa tả điền
Thích thời lai sinh tầm đích huyệt
Thanh trì khổng tộc mộ phục nguyên”
Cụ Bạch Vân sẽ trở về sau 400 năm, khu mộ phần (của cụ ngày xưa) bên trái dòng sông Hàn đã trở thành ruộng đồng, đến thời điểm thích hợp, con cháu sẽ tìm thấy khu mộ này. Việc tìm ra khu mộ này góp phần giữ gìn, làm sáng tỏ cho một dòng họ lớn, ở đây cụ muốn nói tới họ Mạc, Cụ luôn muốn làm sáng tỏ công lao của nhà Mạc, giải nỗi oan khuất có tầm lịch sử của nhà vua Mạc Thái tổ (Mạc Đăng Dung). Vì vậy chúng tôi tin rằng cụ còn những tài liệu quý giá cất giấu ở nơi này.
Nhà ngoại cảm, cư sĩ Trần Văn Lưu dị nhân xứ Thanh Hóa chưa từng tới Hải Phòng được cụ linh ứng bài thơ chữ Hán, mặc dù anh không biết chữ Hán đành chi ghi lại phiên âm nhờ tôi dịch lại:
Giang kỳ tả lộ hiện phi tai
Đương đan sử liệu vật tài lai
Tùng bách quan cao lan khí giả
Ngại nhục phi tầm cổ bản mai
Nghĩa là
Bờ sông bên trái cất gì đây
Cổ sử linh thiêng của đất này
Quan quyền sao lại thờ ơ vậy
Dùng giằng để mất, tội ai đây?
Vũ Hoàng