VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
văn xuôi
Cha và con
Hai mắt ông ngập trong bóng tối, đôi chân lần tìm, bàn tay chìa lên phía trước quờ quạng không gian.
Cha và con
MINH CHUYÊN
Truyện ký 1. Người cha
5. Người con hoang tưởng
Sau cái ngày Trần Cao Nguyên hai tay cắp thằng con trai, giơ lên định “đập chết” trước mặt người cha, tâm thần Nguyên trở nên hoang tưởng cực độ. Chất độc diôxin và cảnh tượng đứa con dị tật đã kích động biến anh thành người hoàn toàn vô thức. Một đêm mưa tầm tã, sấm chớp đùng đoàng, Nguyên đội mưa bỏ nhà ra đi, để lại người vợ trẻ và đứa con bệnh tật. Ra đi, Nguyên chẳng biết mình đi đâu, về đâu, lang thang, nay đây mai đó, nhặt nhạnh, xin ăn, sống kiếp mộng du của một kẻ tâm thần hoang tưởng. Ông Ngô, bố của Nguyên cho biết: Người cùng làng, có lần gặp Nguyên ở nghĩa địa huyện Hóc Môn mãi tận trong Sài Gòn. Cháu giúp việc cho người quản trang và sống nhờ hoa quả, xôi thịt do người ta mang tới lễ mộ để lại. Có người nói họ gặp cháu lang thang ở chợ Bến Thành. Một anh bạn của cháu vào trong đó làm thuê bảo: anh ta gặp Nguyên xin ăn ở ga Hòa Hưng. Khi nhận ra người quen cùng làng, Nguyên cứ trừng trừng nhìn rồi hu hu khóc. Anh ta móc túi cho Nguyên ít tiền, cháu Nguyên không nhận, bỏ đi. Từ đó đến nay bặt tin. Hoàn cảnh gia đình tôi chẳng có điều kiện vào Sài Gòn tìm cháu. Không biết cháu còn hay cơn bệnh phát ra, chết ở đâu đó rồi. Ông Ngô nói tiếp: cháu Nguyên bỏ đi không phải vì cháu sợ con nó dị dạng, mà cháu thất vọng. Thất vọng trong sự hoang tưởng của bệnh tật. Vì chính cháu cũng mang di chứng chất độc trong người. Cái thứ chất độc tàn ác quá. Nó đã triệt hại bao gia đình, triệt hại cả ba đời ông cháu tôi. Nhiều lúc tôi nghĩ: thằng cháu Linh đây, giá như nó lớn lên, nó lấy vợ, nó sinh con, liệu con nó, chắt của tôi, có còn bị như thế này không? Sau ngày Trần Cao Nguyên bỏ đi lang thang, gia cảnh ông Trần Văn Ngô càng trở nên bi thảm. Có con gái Trần Thị Thủy, dân làng thường gọi là cô gái “hình người, da gấu” bị bội nhiễm độc tố, phát bệnh nặng. Các u cục thồi lồi dưới lớp lông đen, sưng tấy, máu mủ vỡ ra ướt đẫm cả áo. Thủy sốt cao, thỉnh thoảng co giật. Có lúc thoi thóp, run rẩy. Bé Linh con của Trần Cao Nguyên sau hơn một tháng vật vã khóc, đến khi không còn đủ sức phát ra âm thanh tiếng khóc thì lại rất sợ ánh sáng. Nhiều lúc bé nhoài vào gầm giường nằm im hoặc bò vào bóng tối úp mặt xuống đất. Một gia đình nông dân nghèo, hàng chục năm chạy chữa cho con, cho cháu, kinh tế gia đình ông Ngô kiệt quệ. Ông không thuộc diện thương bệnh binh. Nạn nhân nhiễm độc da cam, những năm đầu không có chế độ gì hết. Gần đây mới có chút trợ cấp nhưng chả đáng là bao. Ba cha con ông cháu ông mỗi tháng được hơn 200.000 đồng, chỉ đủ tiêm vài ba ngày cho đứa cháu lên cơn co giật. Vợ chồng ông phải xoay xở, vay mượn. Đồ đạc trong nhà có cái gì đáng giá đều đã đưa đi chợ. Có lúc cơn nguy kịch, gia đình ông phải vay nợ lãi cao để lấy tiền cứu con, cứu cháu. Lần này, ông Ngô cảm thấy bế tắc, khó khăn quá. Bà con làng xóm hầu hết cũng nghèo khó và họ cũng đã cưu mang, giúp đỡ gia đình ông nhiều rồi. Xoay xở sao đây? Chẳng lẽ vợ chồng ông ngồi mà nhìn con, nhìn cháu vật vã, đau đớn nằm chờ chết ư? Ông Trần Văn Ngô kể: lúc ấy tôi nghĩ, hay là mình cõng thằng cháu Linh đi ăn xin. Cõng một đứa cháu tật nguyền đi xin ăn, có thể thiên hạ nhiều người dễ động lòng thương. Nghĩ đi thì thế, nghĩ lại tôi thấy thế nào ấy. Đi xin thì phải có lời xin. Chả lẽ lại nói: các ông các bà ơi, tôi đi chiến trường, không may bị nhiễm chất độc, về truyền cho con, cho cháu, mới nên nông nỗi này, mong ông bà rủ lòng thương, cứu giúp! Làm thế, tôi thấy mình bị xúc phạm, nhục nhã, chả thà cả nhà cùng chết. Sau đó, tôi quyết định không cõng cháu đi ăn xin. 6. Bóng tối Nhìn đứa con gái như “da gấu hình người” run rẩy cởi trần cho vợ ông tỉa bớt đám lông xung quanh những cái u, để chúng khỏi cọ sát vào chỗ lở loét, ông Ngô rùng mình, lòng quặn lại. Vừa lúc đó, đứa cháu nội nằm úp mặt, tránh ánh sáng ở góc nhà lên cơn co giật. Ông vội tới giữ chặt thằng bé để nó khỏi đập đầu xuống nền nhà. Chừng mươi phút, hết cơn, người nó mềm nhũn, nằm yên, thở dồn dập, mồ hôi vã ra. Cả hai đứa con và cháu, bệnh tình tái phát đã gần một tháng, vợ chồng ông cố lo chạy chữa, nhưng chẳng thể lo nổi, đành phó mặc cho số phận. Trong nhà có cái gì bán được, ông bà đã bán rồi. Vay mượn, nợ nần, chồng chất, không thể vay mượn mãi. Ông bảo bà lục lọi trong hòm, trong tủ, còn cái đồ gì bán được nữa không. Bà lúi húi lục tìm rồi bảo ông: - Nhà mình chả còn cái gì đáng giá nữa. Chỉ có mấy tấm huân chương sao vàng của ông thôi! Ông bảo: - Ừ nhỉ, thế mà tôi không nhớ ra. Tôi sẽ mang chúng đi chợ. Bây giờ nhiều người cần huân chương lắm bà ạ. Bà Cam nói: - Ông định bán huân chương ư. Không được, huân chương là chiến công đánh giặc của ông. Bán đi thì... - Vâng, tôi biết, nó là danh dự, là chiến công của tôi. Bán chiến công của mình để lấy tiền chữa bệnh cho con, mình biết hy sinh vì con là tốt bà ạ. Hôm sau ông Trần Văn Ngô mang tất cả 5 cái huân chương và ba cái huy hiệu dũng sĩ diệt Mỹ, đơn vị tặng thưởng hồi ông ở chiến trường, tới chợ La. Ông xếp chúng ngay ngắn trong lòng cái rổ nhỡ, rồi đặt xuống cạnh mấy bà hàng gạo. Những người đi qua thấy ông bán món hàng “đặc biệt” dừng lại nhìn rồi bàn tán. Có người nói: Những tấm huân chương này có khi phải trả bằng máu và nước mắt, sao bác lại bán? Có người bảo: chắc là ông ấy kiếm được ở đâu đó, không phải của mình, đeo, người ta cười cho, không bán để làm gì? Mặc mọi người bình phẩm, ông Ngô vẫn ngồi im. Ông ngồi kiên nại chờ những ông khách mà người bạn của ông dặn. Phải bán cho những tay cán bộ chuyển ngành từ bộ đội, không có thành tích, nhưng vẫn khai được tặng thưởng huân chương. Họ rất cần những tấm huân chương làm minh chứng, để cơ quan không nghi họ là khai man. Có huân chương, có thành tích, họ mới lên ông này, bà nọ nhanh. Nhưng cái chợ nhà quê lèo tèo, chả mấy khi có cán bộ đi mua bán. Ông ngồi tới gần tan phiên chợ vẫn không có ai hỏi mua. Ông Ngô đành mang về, chờ hôm sau đi chợ huyện. Đi trên con đường từ chợ La về nhà, chưa đầy cây số, hôm ấy ông Ngô thấy người khác lạ. Đôi chân ông bước đi, như thể có người nâng lên, khi hẫng hụt, lúc lâng lâng. Hai mắt ông bỗng dưng những quầng sáng xanh đỏ lan tỏa treo lơ lửng trước mặt. Hai hàng cây bên dường như thể cong ẹp xuống rung rinh và màu xanh của cây bỗng hóa thành màu đỏ. Những cái ao bèo tây hai bên đường lá xanh, hoa tím cũng đỏ au. Con đường cát sỏi ông đang đi cũng hồng lên rực rỡ. Ông chưa kịp nhận ra vì sao mọi cảnh vật trên đời, qua đôi mắt của ông, chúng đều thay đổi. Giữa lúc hoang mang cực độ, một cảm giác kỳ lạ ập đến ông. Ông vẫn bước đi đều đều, nhưng hai bàn chân hình như không tới đất, ông đi như bơi trong không gian. Đến lúc thùm một cái, lạnh toát thân thể, ông mới mơ hồ nhận ra mình đã lao đầu xuống nước. Những người đi chợ về, phát hiện, họ nhảy xuống ao kéo ông lên. Mọi người xúm vào hà hơi, thổi ngạt, dựng hai chân ông lên trời để nước trong bụng dốc ra. Rồi khiêng ông vào một trạm xá gần đấy. Từ đó, đôi mắt ông Ngô cứ mờ dần, mờ dần. Và ít lâu sau đôi mắt ngập tràn bóng tối. Ông không còn nhìn thấy đứa con vật vã trong cơn đau. Không nhìn thấy vợ ông ngày ngày lau rửa u cục lở vỡ, rỉ máu trên thân thể đứa con. Không nhìn thấy đứa cháu nội lên cơn thần kinh co giật ở góc nhà. Không nhìn thấy, những tiếng kêu khóc, rên rỉ và tiếng quằn quại, dãy dụa của chúng vẫn dội tới làm trái tim ông đau quặn. 7. Đứa con sang Mỹ Việc kiện người Mỹ buộc họ phải bồi thường cho các nạn nhân chất độc da cam được dấy lên khắp nơi. Hội Cựu chiến binh xã Quang Minh đã gợi ý và hướng dẫn ông Trần Văn Ngô thảo đơn khởi kiện. Lá đơn đã viết xong, ông định gửi đi Mỹ ngay, nhưng sau đó lại thôi. Vì thế, ông Phạm Hoàn chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã đã đến tận nhà. Ông Ngô bảo: - Tôi đã nghĩ kỹ rồi, anh Hoàn ạ. Tôi không gửi nữa đâu! Ông Hoàn nói: - Sao bác lại không gửi? Cả nhà bác, ba thế hệ cha, con, cháu đau đớn thế này. Chẳng lẽ bác lại tha thứ cho chính kẻ thù đã gây tội ác cho gia đình mình ư? Ông Ngô ra hiệu cho ông chủ tịch Hội Cựu chiến binh bình tĩnh, rồi thủ thỉ tâm sự: - Đúng, gia đình tôi đau đớn thật. Con tôi, một đứa tâm thần đi lang thang. Một đứa thế này đây. Ông chỉ tay về phía người con gái đang nằm run rẩy trên góc giường. Đứa cháu nội nửa sống, nửa chết. Còn tôi thì... Đó là một nỗi đau, thực lòng, đau lắm. Giờ đi kiện kẻ gây nên nỗi đau cho mình, mình thêm một nỗi hận nữa. Một nỗi hận, một nỗi đau, thành hai nỗi trăn trở. Một nỗi đã cực lắm rồi. Ông Ngô tâm sự tiếp: - Đất nước mình có được cuộc sống hòa bình như hôm nay, cũng phải trả cái giá cho nó chứ. Anh cứ coi gia đình tôi và gia đình của đồng đội tôi là cái giá trả cho sự bình yên. Nghĩ thế, thực lòng, cả nhà tôi đau đớn thật, nhưng nỗi đau có ý nghĩa, nó cũng dễ chịu hơn. Có hòa bình, sự hy sinh như gia đình tôi và bao đồng đội của tôi là tất yếu. Tôi nói thật lòng đấy. Ông chủ tịch Hội Cựu chiến binh nghe ông Ngô dãi bày, vừa ngỡ ngàng, vừa cảm phục. Ông nghĩ, đất nước mình có những người con thật kỳ diệu. Người lính trở về cũng thật anh hùng. Ông nói: - Bác là một người lính chịu đựng hy sinh quá lớn. Đúng là một người lính hy sinh vì mọi người. Thay mặt Hội Cựu chiến binh xã, tôi xin ghi nhận những suy nghĩ của bác. Chỉ có điều hoàn cảnh gia đình bác như thế này, chính sách nhà nước có là bao. Địa phương ta lại khó khăn, chẳng giúp gia đình bác được mấy. Ông chủ tịch Hội cựu chiến binh xã ra về, ông Ngô đứng dậy chào, rồi dò dẫm bước lại phía cái bàn thờ tổ. Ông lấy lá đơn kiện người Mỹ để trong cái hòm đặt trên bàn thờ. Một tay với bó hương trầm và cái bao diêm. Ông giơ tay lần lần theo vách cánh cửa, bước ra ngoài hè rồi ngồi xuống. Ông lặng lẽ bật diêm, đốt hương, một bàn tay cầm lá đơn châm vào ngọn lửa. Lá đơn cháy bùng bùng. Hơi nóng phả vào mặt ông. Ông không nhìn thấy ngọn lửa, nhưng hình dung nó cháy rất nhanh. Những tàn tro đen từ lá đơn đang cháy theo ngọn gió, bay lên trời cao. Cả làn khói hương nghi ngút cũng bay lên trời cao. Rồi tất cả tan vào mênh mông, không gian. Một người Mỹ tên là E. Jum Walte tham chiến ở chiến trường miền Nam Việt Nam những năm sáu mươi. Ông đã từng tham gia rải chất độc hóa học ở các vùng Tây Nguyên, Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Khi đó, trong tâm thức của ông, rải hóa chất khai quang cây rừng để tìm Việt cộng, tránh sự nguy hiểm cho quân đội Mỹ. Sau đó trở về Mỹ, ông mắc bệnh mộng du trầm cảm. Đêm nằm ngủ thường gặp những cơn ác mộng và những giấc mơ kinh hoàng. Ông mơ thấy toàn những linh hồn thơ dại, không rõ hình hài, bám đuổi đòi ăn thịt ông. Giấc mơ khủng khiếp ấy cứ lập đi lập lại suốt nhiều năm liền. Có đêm ông vừa nhắm mắt, những hình hài vẻ đau đớn gào thét bấu chặt lấy người ông, dằn ngửa ông ra, đòi nợ máu. Sau này khi biết được thông tin, chất khai quang có chứa nồng độ dioxin cực kỳ độc hại, rải ở chiến trường miền Nam đã gây nên thảm họa da cam, làm hàng triệu trẻ em qua đời. Lúc ấy ông E. Jum Walte mới giật mình nghĩ lại những điều mình đã gây ra. Có thể hình hài những đứa trẻ con quằn quại trong giấc chiêm bao chính là những em bé Việt Nam hiện hình báo oán. Ngày 30 tháng 4 năm 2005 ông E. Jum Walte và vợ đã bay sang Việt Nam, với tư cách là nhà từ thiện, nhưng thực chất là ông sang để “sám hối” tội lỗi của mình đã gây ra cho nhân dân Việt Nam. Sau ít ngày rong ruổi ủng hộ từ thiện ở thành phố Hồ Chí Minh, ông ra miền Bắc thăm các nạn nhân di chứng chất độc da cam và được giới thiệu về xã Quang Minh thăm gia đình ông Trần Văn Ngô. Mặc dù đã được nghe giới thiệu, nhưng khi tới nhà, tận mắt thấy cảnh hai cha con và người cháu của ông Ngô, ông người Mỹ rùng rợn, lắc đầu. Ông không lường được thứ chất độc khai quang cây rừng các ông rải ở Tây Nguyên, ông Ngô nhiễm phải, lại tai họa, ác nghiệt đến thế này. Tự dưng ông E. Jum Walte thấy sợ hãi. Ông cảm giác như thể xung quanh nơi ông đứng, người thân gia đình ông Ngô đang bao vây. Họ căm hận, họ nguyền rủa và sẵn sàng lao ra, dùng hung khí băm vằm thân thể ông mà không hề nuối tiếc. Ông lùi ra phía sau tấm cửa, vẻ đề phòng. Nhưng suốt hơn một giờ đồng hồ vừa hỏi chuyện, vừa cảnh giác, ông người Mỹ không thấy động tĩnh gì, không thấy ai thù hận. Ông Ngô, bà Ngô hai người đau xót nhất, vẻ mặt vẫn độ lượng, bao dung. Ông Trần Văn Ngô không nhìn thấy ông người Mỹ, nhưng ông được mọi người cho biết, ông E. Jum Walte chính là kẻ thù gây họa cho gia đình ông, đang đứng cách ông trong gang tấc. Ông Ngô chớp chớp hai mắt và hướng về phía ông người Mỹ, nói: - Hơn 30 năm trước, giá như gặp ông, tôi đã nhanh tay bắn chết ông rồi. Còn bây giờ ông đừng sợ! Im lặng một lát, ông nói tiếp: có giết chết ông, nỗi đau của gia đình tôi và nỗi đau của hàng vạn gia đình khác cũng không hết được. Tôi chỉ mong ông, khi về nước Mỹ, ông phải nói với người Mỹ rằng: Người Việt Nam sẵn sàng tha thứ cho kẻ gây ra tội ác. Nhưng người Mỹ phải biết hậu quả tội ác của mình. Phải có trách nhiệm với tội ác, đối với các nạn nhân nhiễm độc da cam ở Việt Nam do chính người Mỹ gây ra. Sau khi nghe cô phiên dịch truyền đạt, ông E. Jum Walte khuôn mặt dịu xuống, vẻ yên tâm. Ông ta nói: Cảm ơn ông! Cảm ơn Việt Nam. Tôi sẽ nói những điều gan ruột ông nói, với người Mỹ của tôi. Trước hết, tôi muốn gia đình ông cho phép được đưa em Trần Thị Thủy sang Mỹ để chúng tôi chữa trị và thay lớp da đen trên cơ thể em. Ông bà cứ yên tâm, chữa bệnh cho Thủy còn là tình người và trách nhiệm của tôi mà. Trước sự thành khẩn của ông người Mỹ muốn được đưa nạn nhân Trần Thị Thủy sang Mỹ để “tẩy rửa” cái chất độc chiến tranh trong cơ thể em do chính ông ta gây ra. Được sự giúp đỡ của chính quyền, ba tháng sau, gia đình ông Trần Văn Ngô đã tiễn đưa người con gái tật nguyền của mình lên đường sang nước Mỹ. Giữa những ngày hai người con của ông, một đứa lang thang không rõ sống chết ở nơi nào, một đứa sang Mỹ. Ở nhà chỉ còn bé Linh đứa cháu nội của ông vẫn ngày ngày úp mặt trong bóng tối và lên cơn co giật đã thành chu kỳ. Ông Ngô đổ bệnh gục hẳn. Chất độc trong dòng máu của ông tiếp tục hành hạ ông. Toàn thân ông đau âm ỉ, khó thở, mặt tím tái. Hơi nóng từ trong người bốc ra, qua mũi, qua miệng có mùi hôi hôi, khó chịu. Có lúc ông cảm giác, luồng khí nóng có mùi như thể từ các phủ tạng tụ lại, chạy dọc sống lưng, lan ra khắp cơ thể. Bụng ông dộp lên từng lớp vẩy tê tê. Có chỗ da mọng nước phù nề. Mấy hôm sau những mảng da phù nề vỡ ra, rỉ máu tím như máu đỉa. Rồi những ngày sau đó, ông Ngô mơ hồ nhận ra xung quanh mình, có một thế giới kỳ quái. (sau này khi tỉnh, ông Trần Văn Ngô kể lại). Ông khỏe mạnh, phương phi, khoác ba lô cùng đồng đội hành quân vào chiến trường. Đoàn quân đi rất lạ, những anh bộ đội trước mặt ông toàn là những người dặt dẹo, chân bé tý, đầu dài ngoẵng, rất to. Ông sợ hãi, lùi lại, lập tức những người phía sau xô tới, công kênh ông lên cao, rồi thả ông vào đám mây màu ngũ sắc. Ông Ngô bay theo đám mây. Chừng một lát, đám mây ngũ sắc biến thành màu da cam rực rỡ, bồng bềnh đưa ông lên tận trời xanh... Ngày hôm ấy, bà Cam vợ ông thấy chồng ăn nói toàn những điều quái gở, nói luyên thuyên. Và đêm đó, cơn hoang tưởng đã đưa ông ra nghĩa địa đào mộ thằng con trai đầu lòng. Ông hoàn toàn vô thức. Hậu quả của loại hóa chất, đầu độc thần kinh đã biến ông thành một người vừa mù, vừa tâm thần. * Một năm sau Trần Thị Thủy con gái ông Ngô từ Mỹ trở về. Từ một thân thể “da gấu, hình người” do di họa dioxin, toàn thân phủ một lớp lông đen, Thủy gần như được “lột xác” trở thành một cô khác hẳn. Dù chỉ mới được các thầy thuốc người Mỹ “lột” phần da mặt, cổ, chân tay, thay vào đó là một lớp da bình thường. Riêng từ hai gối chân trở lên tới phần dưới cổ của Thủy vẫn còn lớp da lông đen, nhưng các u cục đã bớt đau buốt. Thủy hồn nhiên nói với mọi người: - Em được các thầy thuốc ở Mỹ chữa trị, chăm sóc rất tận tình. Người Mỹ họ tốt lắm. Gia đình ông bà E. Jum Walte đối với em như người ruột thịt. Hai ông bà thường xuyên đưa em tới bệnh viện, chăm sóc, thuốc men, lo cho mọi thứ chu đáo. Em được sống trong tình cảm yêu thương của ông bà E. Jum Walte như sống ở nhà mình vậy. Giá như nhìn được, hoặc nhận biết được người con gái tật nguyền của mình sau những ngày đi điều trị ở Mỹ về, bớt đau ốm, được mang màu da của con người, hẳn ông Trần Văn Ngô vui lắm, hạnh phúc lắm. Còn giờ đây, ông thờ ơ, lặng lẽ như một cái bóng. Hận thù, đau thương, hạnh phúc, ông không còn cảm nhận được. Nhưng mọi người vẫn cảm nhận: cha con ông, cha con người lính trong ông đang phải nén chịu nỗi bất hạnh đến tận cùng, nén nỗi đau của một nhà, để cho muôn nhà được sống trong hòa bình, yên vui. Hà Nội, 10.2006 M.C (255/5-10) Nguon theo tapchisonghuong |