VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
VĂN HỌC QUỐC TẾ
Người đọc giỏi và người viết giỏi. Tiểu luận của Vladimir Vladimirovich Nabokov
Vladimir Vladimirovich Nabokov (1899-1977) còn được biết đến với bút danh Vladimir Sirin, là một tiểu thuyết gia, nhà thơ, dịch giả và nhà côn trùng học người Mỹ gốc Nga.Người đọc giỏi và người viết giỏi. Tiểu luận của Vladimir Vladimirovich Nabokov
.
Một trăm năm trước, Flaubert trong thư gửi tình nhân của ông đã nói rằng: Comme l’on serait savant si l’on connaissait bien seulement cinq à six livres: “Người ta sẽ uyên bác biết bao nếu thực sự thấu hiểu chỉ năm, sáu cuốn sách mà thôi.”
|
Vladimir Vladimirovich Nabokov (1899-1977) còn được biết đến với bút danh Vladimir Sirin, là một tiểu thuyết gia, nhà thơ, dịch giả và nhà côn trùng học người Mỹ gốc Nga. Sinh ra trong thời kì trước Cách mạng Tháng Mười ở Nga năm 1899, Nabokov đã viết chín cuốn tiểu thuyết đầu tiên bằng tiếng Nga (1926-1938) khi sống ở Berlin, nơi ông gặp vợ mình. Ông nhận được sự hoan nghênh và nổi tiếng tầm quốc tế sau khi chuyển đến Hoa Kỳ, tại đây ông bắt đầu viết bằng tiếng Anh. Nabokov trở thành công dân Mỹ vào năm 1945. Cuốn tiểu thuyết “Lolita” xuất bản năm 1955 của Nabokov xếp thứ tư trong danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất thế kỉ 20 của Thư viện Hiện đại năm 2007 và được coi là một trong những tác phẩm văn học vĩ đại nhất thế kỉ 20. Nabokov từng bảy lần lọt vào chung kết Giải thưởng Sách quốc gia Mỹ dành cho thể loại Hư cấu. Ông cũng là một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp về loài bướm và cũng là người soạn các bài toán cờ vua. |
“Làm thế nào để trở thành một người đọc giỏi” hay “Lòng tốt đối với các tác giả”, hay một cái gì đó tương tự như thế có thể dùng làm phụ đề cho những cuộc bàn luận này về nhiều tác giả khác nhau, bởi dự định của tôi là sẽ xem xét với tất cả tình yêu thương, bằng một thái độ trìu mến và dài hơi, một vài kiệt tác châu Âu. Một trăm năm trước, Flaubert trong thư gửi tình nhân của ông đã nói rằng: Comme l’on serait savant si l’on connaissait bien seulement cinq à six livres: “Người ta sẽ uyên bác biết bao nếu thực sự thấu hiểu chỉ năm, sáu cuốn sách mà thôi.”
![]() |
|
Minh họa nhà văn Nabokov trong một cuộc đối thoại về văn chương, cuộc đời. Nguồn: OPEN CULTURE |
Trong khi đọc, ta cần lưu ý và xem trọng những chi tiết. Chẳng có gì sai trái với ánh trăng đầy chất khái quát khi nó đến sau những mảnh nắng mai của cuốn sách đã được gom góp bằng tình yêu. Nếu ta bắt đầu bằng một khái quát có sẵn, thì tức là ta đã bắt đầu từ một cực sai lầm và rời xa cuốn sách trước khi kịp hiểu nó. Không có gì chán ngắt và bất công hơn đối với tác giả khi bắt đầu đọc, ví dụ Mrs Bovary (Bà Bovary), với định kiến có sẵn rằng đó là một bản lên án giai cấp tư sản. Ta phải luôn nhớ rằng tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng là sự sáng tạo một thế giới mới, và việc đầu tiên cần làm là khảo sát thế giới mới ấy sát sao hết mức, tiếp cận nó như một điều hoàn toàn mới lạ, chẳng có liên hệ hiển nhiên nào với các thế giới mà ta đã biết. Khi thế giới mới này đã được khảo cứu kĩ càng, thì chỉ khi đó ta mới nên xem xét những mối liên kết của nó với các thế giới khác, những ngành tri thức khác.
Một câu hỏi khác: Liệu ta có thể trông mong gặt hái thông tin về những địa danh và thời đại từ một cuốn tiểu thuyết? Có ai ngây thơ đến mức tin rằng mình có thể học được chút gì về quá khứ từ những cuốn bán chạy dày cộp được các câu lạc bộ sách rao bán dưới cái nhãn hiệu tiểu thuyết lịch sử? Nhưng còn những kiệt tác thì sao? Liệu ta có thể tin cậy vào bức tranh của Jane Austen về nước Anh điền chủ với các nam tước và các điền trang được quy hoạch công phu khi tất cả những gì bà biết chỉ là phòng khách của một giáo sĩ? Và Bleak House, cuốn tiểu thuyết lãng mạn kì ảo trong một London kì ảo, liệu ta có thể coi đó là một khảo cứu về London một trăm năm trước? Chắc chắn là không. Và điều tương tự là đúng cho các tiểu thuyết khác như thế. Sự thật là những tiểu thuyết lớn là những truyện cổ tích lớn, và những cuốn tiểu thuyết cùng loại như thế là những truyện cổ tích tối thượng.
Thời gian và không gian, màu sắc của các mùa trong năm, những vận động của cơ bắp và tâm trí, tất cả những thứ đó đối với các nhà văn thiên tài (trong chừng mực chúng ta có thể phỏng đoán, và tôi tin chúng ta đoán đúng) không phải là những khái niệm truyền thống có thể vay mượn từ các thư viện đang hoạt động nơi chứa đựng các chân lí công khai, mà là một chuỗi những bất ngờ độc đáo nhất mà các bậc thầy đã học được cách diễn đạt theo lối độc đáo nhất của mình. Phần việc dành cho các tác giả hạng xoàng chỉ là việc tô điểm cho cái tầm thường: họ chẳng bận tâm tái tạo thế giới; họ chỉ cố vắt kiệt cái tốt đẹp nhất có thể từ một trật tự thế giới đã có sẵn, từ những hình mẫu truyền thống của tiểu thuyết. Những kết hợp khác nhau mà các tác giả hạng xoàng có thể tạo ra trong những giới hạn định sẵn ấy có thể khá thú vị theo kiểu thoáng qua và nhẹ nhàng, bởi lẽ những người đọc hạng xoàng thường thích nhận ra ý tưởng của chính mình dưới một lớp ngụy trang thoải mái và dễ chịu. Nhưng những nhà văn đích thực, là những con người khiến cho các hành tinh xoay vần, phóng bút nhào nặn một người đàn ông đang ngủ và hăm hở nghịch ngợm với chiếc xương sườn của kẻ ấy, kiểu tác giả đó thì không có những giá trị sẵn dùng trong tay: ông ta phải tự tạo ra chúng. Nghệ thuật viết văn là một công việc rất phù phiếm nếu nó không bao hàm trước hết và trên hết nghệ thuật nhìn thế giới như một tiềm năng của hư cấu. Chất liệu của thế giới này có thể đủ thực (trong chừng mực mà cái gọi là thực tại còn đi xa được) nhưng nó hoàn toàn không tồn tại như một tổng thể đã được thừa nhận: nó là hỗn độn, và với sự hỗn độn này, nhà văn nói “hãy khởi sinh!”, để thế giới sáng lên và hòa quyện. Giờ đây nó được tái kết hợp trong tận các nguyên tử của nó, chứ không chỉ trong các phần tử hữu hình và trên bề mặt. Nhà văn là kẻ đầu tiên vẽ bản đồ và đặt tên cho các vật tự nhiên trong đó. Những quả mọng kia ăn được. Sinh vật lốm đốm vừa lao vút qua đường ta có thể thuần hóa. Hồ nước giữa những hàng cây kia sẽ được gọi là Hồ Ngọc hoặc, nghệ thuật hơn, Hồ Rửa Chén. Đám sương kia là một ngọn núi, và ngọn núi ấy phải được chinh phục. Trên một sườn dốc không dấu vết, bậc thầy nghệ sĩ trèo lên, và trên đỉnh, nơi dãy núi lộng gió, bạn đoán xem ông ta gặp ai? Người đọc hổn hển và hạnh phúc, và ở đó, họ tự khắc ôm lấy nhau, gắn bó mãi mãi nếu cuốn sách còn tồn tại mãi mãi.
Một buổi tối tại một trường cao đẳng tỉnh lẻ xa xôi mà tôi tình cờ ghé qua trong chuyến diễn giảng dài ngày, tôi đã đề xướng một trò đố nho nhỏ là đưa ra mười định nghĩa về một độc giả, và từ mười định nghĩa này sinh viên phải chọn ra bốn định nghĩa kết hợp để tạo ra một người đọc giỏi. Tôi đã làm thất lạc bản danh sách, nhưng theo như tôi nhớ thì những định nghĩa ấy đại khái như sau. Hãy chọn bốn đáp án cho câu hỏi: độc giả cần phải thế nào, để trở thành một độc giả giỏi:
1. Độc giả nên là thành viên của một câu lạc bộ sách.
2. Độc giả nên đồng nhất bản thân mình với nhân vật nam hoặc nữ chính.
3. Độc giả nên tập trung vào góc độ kinh tế-xã hội.
4. Độc giả nên thích một câu chuyện có hành động và đối thoại hơn là một câu chuyện không có.
5. Độc giả nên từng xem cuốn sách được dựng thành phim.
6. Độc giả nên là một tác giả đang chớm nở.
7. Độc giả nên có trí tưởng tượng.
8. Độc giả nên có trí nhớ.
9. Độc giả nên có một cuốn từ điển.
10. Độc giả nên có chút cảm quan nghệ thuật.
Sinh viên thì nghiêng nhiều về việc đồng nhất cảm xúc, hành động, và góc độ kinh tế-xã hội hay lịch sử. Tất nhiên, như bạn đã đoán, một độc giả giỏi là người có trí tưởng tượng, trí nhớ, từ điển, và một ít cảm quan nghệ thuật mà tôi luôn muốn bồi dưỡng cho bản thân và cho người khác bất cứ khi nào có cơ hội.
Nhân tiện, tôi dùng từ độc giả theo nghĩa rất rộng. Thật kì lạ, người ta không thể đọc một cuốn sách: người ta chỉ có thể đọc lại nó mà thôi. Một độc giả giỏi, một độc giả lớn, một độc giả tích cực và sáng tạo là một độc giả đọc lại. Và tôi sẽ nói cho bạn biết tại sao. Khi chúng ta đọc một cuốn sách lần đầu, chính cái quá trình vất vả di chuyển đôi mắt từ trái sang phải, dòng này sang dòng khác, trang này sang trang khác, cái công việc phức tạp ấy trên cuốn sách, chính quá trình học hỏi trong không gian và thời gian rằng cuốn sách nói về điều gì, tất cả điều đó chen vào giữa ta và việc thưởng thức nghệ thuật. Khi ta ngắm một bức tranh, ta không cần phải di chuyển mắt theo một cách đặc biệt, ngay cả khi, như trong một cuốn sách, bức tranh có chứa những yếu tố về chiều sâu và sự phát triển. Yếu tố thời gian thực ra không hiện diện trong lần tiếp xúc đầu với một bức tranh. Nhưng khi đọc một cuốn sách, ta cần có thời gian làm quen. Ta không có một cơ quan thể xác nào (như mắt với tranh vẽ) có thể thu nhận toàn bộ bức tranh rồi mới tận hưởng chi tiết của nó. Nhưng ở lần đọc thứ hai, thứ ba, thứ tư, ta, theo một nghĩa nào đó, cư xử với một cuốn sách giống như khi cư xử với một bức tranh. Tuy nhiên, đừng lẫn lộn con mắt thể xác, kiệt tác khổng lồ của tiến hóa, với trí tuệ, một thành tựu khổng lồ hơn. Một cuốn sách, bất kể nó là gì, một tác phẩm hư cấu hay một công trình khoa học (ranh giới giữa hai thứ này không rõ ràng như người ta thường tin), một cuốn sách hư cấu trước hết khơi gợi lên trí tuệ. Trí tuệ, bộ óc, đỉnh cao của xương sống rần rật, chính là, hay đúng ra phải là, công cụ duy nhất được sử dụng khi đọc một cuốn sách.
Vậy thì, đã như thế, ta nên suy ngẫm về câu hỏi: trí tuệ hoạt động thế nào khi độc giả u sầu đối diện với cuốn sách tươi tắn. Trước tiên, tâm trạng u sầu tan chảy, và dù tốt hay xấu, độc giả bước vào cõi tinh thần của trò chơi. Nỗ lực bắt đầu một cuốn sách, nhất là khi nó được những người mà độc giả trẻ tuổi thầm cho là quá cổ hủ hoặc quá nghiêm túc ca ngợi, nỗ lực ấy thường khó khăn; nhưng một khi đã thực hiện, phần thưởng thật phong phú và đa dạng. Vì nghệ sĩ bậc thầy đã dùng trí tưởng tượng của mình để sáng tạo cuốn sách, nên thật tự nhiên và công bằng khi người thưởng thức cuốn sách cũng phải dùng trí tưởng tượng của họ.
Tuy vậy, ít ra có hai dạng trí tưởng tượng nơi độc giả. Vậy hãy xem dạng nào trong hai dạng là đúng đắn để dùng khi đọc một cuốn sách. Thứ nhất, có dạng khá thấp kém, nó tìm chỗ dựa ở các cảm xúc đơn sơ và mang tính cá nhân rõ rệt. (Có nhiều biến thể nhỏ trong phạm trù đọc đầy cảm xúc này.) Một tình huống trong sách được cảm nhận mãnh liệt bởi vì nó gợi nhắc ta đến một chuyện từng xảy ra với ta hay với người nào đó ta quen biết. Hoặc, một độc giả quý trọng một cuốn sách chủ yếu vì nó khơi gợi một đất nước, một phong cảnh, một lối sống mà anh ta hoài niệm như một phần của quá khứ chính mình. Hoặc, và đây là điều tệ hại nhất mà một độc giả có thể làm, là anh ta đồng nhất bản thân với một nhân vật trong sách. Dạng thấp kém này không phải là trí tưởng tượng mà tôi muốn độc giả sử dụng.
Vậy thì, công cụ đích thực mà độc giả phải sử dụng là gì? Đó là trí tưởng tượng phi cá nhân và niềm khoái lạc nghệ thuật. Điều cần được xác lập, theo tôi, là một sự cân bằng hài hòa mang tính nghệ thuật giữa tâm trí của độc giả và tâm trí của tác giả. Ta nên giữ một chút xa cách và tận hưởng chính sự xa cách đó, trong khi đồng thời say mê tận hưởng, tận hưởng một cách mãnh liệt, tận hưởng bằng cả nước mắt và run rẩy cái mạng lưới nội tại của một kiệt tác nhất định. Hoàn toàn khách quan trong những vấn đề này dĩ nhiên là điều không thể. Mọi thứ có giá trị đều ở mức độ nào đó mang tính chủ quan. Thí dụ, bạn đang ngồi đó có thể chỉ là giấc mơ của tôi, còn tôi có thể là cơn ác mộng của bạn. Nhưng ý tôi muốn nói là độc giả phải biết khi nào và ở đâu cần kìm hãm trí tưởng tượng của mình, và điều này được thực hiện bằng cách cố gắng nhận rõ thế giới cụ thể mà tác giả đặt sẵn cho ta. Ta phải thấy những sự vật và nghe những âm thanh, ta phải hình dung ra các căn phòng, y phục, phong thái của nhân vật trong tác giả. Màu mắt của Fanny Price trong Mansfield Park và cách bày biện căn phòng nhỏ lạnh lẽo của cô đều là quan trọng.
Chúng ta ai cũng có khí chất khác nhau, và tôi có thể nói ngay rằng khí chất tốt đẹp nhất cho một độc giả có được, hoặc bồi dưỡng được, là sự kết hợp giữa nghệ sĩ và nhà khoa học. Nghệ sĩ chỉ có lòng nhiệt thành riêng tây thì dễ trở nên quá chủ quan trong thái độ đối với một cuốn sách, và vì thế sự điềm tĩnh khoa học trong phán đoán sẽ điều hòa nhiệt huyết trực quan. Nhưng nếu một kẻ muốn làm độc giả lại hoàn toàn thiếu đam mê và kiên nhẫn tức là thiếu đam mê của nghệ sĩ và kiên nhẫn của nhà khoa học thì anh ta khó mà thưởng thức được nền văn học vĩ đại.
Văn học không ra đời vào ngày một cậu bé vừa kêu khóc “sói, sói” vừa chạy ra khỏi thung lũng của người Neanderthal với một con sói xám to tướng bám sát sau lưng; văn học ra đời vào ngày một cậu bé kêu khóc “sói, sói” mà phía sau chẳng có con sói nào. Việc cậu bé tội nghiệp ấy cuối cùng bị một con sói thật sự ăn thịt vì nói dối quá nhiều chỉ là tình tiết phụ. Nhưng điều quan trọng là thế này: giữa con sói trong đám cỏ cao và con sói trong câu chuyện phóng đại có một thứ trung gian lấp lánh. Thứ trung gian ấy, lăng kính ấy, chính là nghệ thuật văn chương.
Văn chương là sáng tạo. Hư cấu là hư cấu. Gọi một câu chuyện là thật là xúc phạm cả nghệ thuật lẫn sự thật. Mọi nhà văn lớn đều là kẻ lừa dối vĩ đại, nhưng thiên nhiên hay là kẻ lừa gạt tối thượng cũng thế. Thiên nhiên luôn lừa dối ta. Từ sự đánh lừa đơn giản của sinh sản cho đến ảo ảnh tinh vi phi thường của màu sắc ngụy trang ở bướm hay chim, trong tự nhiên tồn tại một hệ thống kì diệu các phép thuật và mánh lới. Nhà văn hư cấu chỉ đơn thuần là kẻ theo dấu của thiên nhiên.
Trở lại một chút với cậu bé lông lá trong rừng hay kêu khóc trước bầy sói, ta có thể diễn đạt thế này: phép màu của nghệ thuật nằm ở cái bóng con sói mà cậu ta cố tình bịa ra, nằm ở giấc mơ về con sói của cậu; rồi câu chuyện về những mánh khóe của cậu trở thành một câu chuyện hay ho. Khi cuối cùng cậu ta chết, câu chuyện kể về cậu ta lại mang đến thêm một bài học chung quanh đống lửa trại trong đêm tối. Nhưng cậu bé chính là một tiểu pháp sư, cậu ta là nhà phát minh.
Có ba góc nhìn để xem xét một nhà văn: nhà văn có thể được coi là một người kể chuyện, có thể được coi là một người thầy, và có thể được coi là một nhà phù phép. Một nhà văn lớn kết hợp cả ba: kể chuyện, dạy dỗ, mê hoặc, nhưng chính nhà phù phép nơi ông mới chiếm ưu thế, biến ông thành một nhà văn lớn.
Đến với người kể chuyện, ta tìm kiếm chuyện giải trí, chuyện kích thích tinh thần ở dạng đơn giản nhất, chuyện tham gia đầy cảm xúc, niềm vui của chuyến du hành tới miền không gian hay thời gian xa xôi. Một trí tuệ hơi khác, dù không nhất thiết cao hơn, thì tìm đến người thầy nơi nhà văn. Nhà truyền giáo, nhà luân lí, nhà tiên tri, đó là trình tự thăng tiến. Ta có thể tìm đến người thầy không chỉ để học đạo đức mà còn để có tri thức trực tiếp, để biết các sự thực đơn giản. Than ôi, tôi từng biết những người mà mục đích đọc các tiểu thuyết gia Pháp và Nga chỉ là để biết thêm đôi điều về cuộc sống ở Paris phù hoa hay nước Nga buồn thảm. Cuối cùng, và trên hết, một nhà văn lớn luôn là một nhà phù phép vĩ đại, và chính ở đây ta mới đi tới phần thật sự gây phấn khích, khi ta cố nắm bắt phép màu riêng tây của thiên tài ông ta và khảo sát phong cách, hình ảnh, kết cấu tiểu thuyết hay thi ca của ông.
Ba phương diện của một nhà văn lớn đó là phép màu, câu chuyện, bài học thường hòa quyện thành một ấn tượng rực rỡ thống nhất và độc nhất, bởi phép màu của nghệ thuật có thể hiện diện ngay trong xương cốt của câu chuyện, trong tận tủy não của tư tưởng. Có những kiệt tác của tư tưởng khô khốc, trong sáng, mạch lạc, lại khơi gợi ở trong ta một cơn run rẩy nghệ thuật mạnh mẽ chẳng kém gì một cuốn tiểu thuyết như Mansfield Park hay bất kì dòng chảy dồi dào nào của hình tượng gợi cảm kiểu Dickens. Với tôi, một công thức tốt để kiểm nghiệm chất lượng một tiểu thuyết, xét về lâu dài, là sự hòa quyện giữa độ chính xác của thi ca và trực giác của khoa học. Để đắm mình trong phép màu ấy, độc giả khôn ngoan đọc sách của thiên tài không bằng trái tim, không quá nhiều bằng trí não, mà bằng chính xương cốt của mình. Chính ở đó xảy ra cái rùng mình khám phá ra chân tướng, dẫu khi đọc ta phải giữ chút xa cách, chút dửng dưng. Rồi với một niềm khoái lạc vừa cảm quan vừa trí tuệ, ta sẽ dõi theo nghệ sĩ dựng lâu đài bằng những lá bài và sẽ nhìn lâu đài bằng lá bài ấy hóa thành một tòa lâu đài tuyệt đẹp bằng cả thép và kính.
Đào Quốc Minh
Trích dịch từ sách “Lectures on Literature” của Nabokov.
Các tin khác
-
Chanh thần. Truyện ngắn của Lương Khả Tú
-
Nơi nước sâu nhất. Truyện ngắn của Claire Keegan
-
ЧТО ЧИТАТЬ И ЧТО ПЕТЬ? ĐỌC VÀ HÁT CÀI GÌ?
-
ХОББИ (SỞ THÍCH)
-
Какова цель «сверхчеловеков»? (Mục đích gì của sieu nhân)
-
Солнце над колодцем (Mặt trời trên giếng)
-
Cô gái và con rắn. Truyện ngắn của O Thiam Chin
-
АНГЕЛЫ СУДЖИ (Tiểu thuyết)
-
Vợ cũ. Truyện ngắn của nhà văn Collette (Pháp)
-
«Имение моё заложено…» (Tên tôi đặt nền móng...)


