VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Thơ
CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ QUÊ CỦA TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Đây là câu ca ở Trung Am, tức làng Giữa, xưa thuộc tổng Thượng Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, thời nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh BảoCA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
.
CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ TRẠNG TRÌNH
.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ngày 06 tháng 04 năm Hồng Đức thứ 22, tức ngày 13 tháng 05 năm 1491 tại ấp Trình Tuyền, trang Úm Mạt (tên Nôm là Mét), huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, xứ Hải Dương, nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng và mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái năm thứ nhất, tức ngày 17 tháng giêng năm 1586 tại làng Trung Am, tổng Đông Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, đạo Hải Dương. Còn hai từ Trung Am (中庵), nghĩa nôm na tiếng Hán là “thôn Giữa”, được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt vào thời gian ông đang làm quan ở Thăng Long (1535 – 1542). Về sau khi dùng địa danh bằng hai từ, nên mới gọi là làng (xã) Trung Am thuộc tổng Thượng Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Từ năm Minh Mạng thứ 19 (1838), thì huyện Vĩnh Bảo được thành lập gồm 5 tổng (Bắc Tạ, An Bồ, Viên Lang, Đông Tạ và Can Trì) của huyện Tứ Kỳ cùng với 3 tổng (Thượng Am, Đông Am và Ngải Am) của huyện Vĩnh Lại. Từ sau năm 1945 làng Trung Am thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, từ cuối năm 1952 huyện này được cắt về tỉnh Kiến An và từ tháng 10 năm 1962 thì tỉnh Kiến An và thành phố Hải Phòng hợp nhất. Từ tháng 07 năm 2025 thì thôn Trung Am thuộc xã Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành phố Hải Phòng. Vì đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được công nhận là Khu di tích cấp quốc gia đặc biệt từ năm 2015, nên chúng tôi tách riêng ra để độc giả dễ nhận biết hơn, chứ thực tế nó vẫn nằm trong phần “Ca dao tục ngữ, thành ngữ về huyện Vĩnh Bảo”:
1-
Mười tám trang Am
Sang Nam mất một.
(Câu ca này ra đời vào thời Lê Trịnh (1592 – 1788). Ở lục tổng khu dưới Vĩnh Lại (từ năm 1838 là Vĩnh Bảo) vào thời Mạc có 18 Am do Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt tên (Trung Am, Tiền Am, Hậu Am, Lãng Am, Ngải Am, Dương Am, Hạ Am, Thượng Am, Hội Am, Cổ Am, Tây Am, Đông Am, Nam Am, Tiên Am, Bào Am, Mai Am, Vạn Am và Vân Am). Trong đó có Vân Am ở chếch phía Nam bên hữu ngạn hạ lưu sông Tô (từ năm 1890 là sông Hóa) và vào khoảng cuối thời Lê Trịnh, thì làng Vân Am bị cắt về tổng An Bài, huyện Thụy Anh, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam Hạ, thời nay thuộc huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, từ 07/2025 là tỉnh Hưng Yên. Tới tháng 09/2025, thì 5 Am bị mất hay bị đổi tên khác gồm: Mai Am, Vạn Am, Hậu Am, Tiên Am và Bào Am).
2-
Cá rô đầm Bái
Con gái Trung Am
(Đầm Bái Khê, gọi tắt là Bái, xưa thuộc làng Liêm Khê, tổng Thượng Am, thời nay thuộc xã Liên Am, huyện Vĩnh Bảo. Còn Trung Am là quê của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm)
3-
Bán cá chợ Hôm
Đơm tôm đầm Vĩnh
(Chợ Hôm là chợ họp vào buổi chiều, sau này là chợ Nam Am. Còn đầm Vĩnh nối với Vĩnh Trinh, tức con kênh mang tên Vĩnh ở lục tổng khu dưới huyện Vĩnh Bảo, từ 07/2025 hai địa danh trên thuộc xã Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành phố Hải Phòng)
4-
Con sông bên lở, bên bồi
Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm
Mong trời tạnh gió dòng êm
Thuyền đi xuôi ngược qua đêm lại về.
(Tương truyền câu ca dao này nói về mối tình không được “thuận buồm xuôi gió” lắm của bố mẹ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là bà Nhữ Thị Thục ở ấp An Tử Hạ bên tả ngạn sông Kim, từ năm 1890 là sông Thái Bình (bên bồi) và ông Nguyễn Văn Định ở ấp Trình Tuyền bên hữu ngạn sông Kim, từ năm 1890 là sông Thái Bình (bên lở).
5-
Ba bị chín quai
(Câu ca này của tổng Thượng Am, huyện Vĩnh Lại bên hữu ngạn sông, thời nay là xã Liên Am và Lý Học huyện Vĩnh Bảo và tổng Hán Nam, huyện Tiên Minh bên tả ngạn sông Kim, từ năm 1890 là sông Thái Bình, thời nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Câu này có nghĩa là bên tổng Hán Nam (Tiên Lãng) chín lần quai đê ra mở mang diện tích và người dân bên bồi gọi là khu Dều Vịt. Còn bên hữu ngạn (Vĩnh Bảo) ba lần bị vỡ đê, bị lở mất khá nhiều diện tích đất)
6-
Bà Xộp - An Lạc
Thần Vịt – Xuân Lôi
Bà Bồi – Trung Am
(Dọc theo sông Kim (từ năm 1890 là Thái Bình) từ thượng lưu xuống ta gặp: Miếu Bà Xộp ở giáp Lăng Đông, làng An Lạc (cuối thế kỷ XIX đổi thành An Ninh) thuộc tổng Viên Lang, huyện Tứ Kỳ, từ năm 1890 trở đi là huyện Vĩnh Bảo, thời nay thuộc xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Bảo. Tiếp theo ta gặp miếu Thần Vịt ở giáp Xuân Lôi sau đổi là Bái Khê, xưa thuộc làng Liêm Khê, sát làng Trung Am cùng tổng Thượng Am, thời nay thuộc xã Liên Am huyện Vĩnh Bảo. Còn miếu Bà Bồi ở làng Trung Am, tổng Thượng Am. Thời phong kiến ngoài việc đắp đê chống lũ lụt, thì thôn dân địa phương còn lập các miếu thờ thủy thần. Ba miếu thờ trên đều nằm ở bên hữu ngạn (bên bị lở) sông Kim (từ 1890 là Thái Bình) nhằm chống lũ lụt cho địa phương)
7-
Đống Thờ đám tang
Nghĩa trang đống Cụt
(Đây là câu ca ở Trung Am, xưa thuộc tổng Thượng Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, từ năm 1838 trở đi là huyện Vĩnh Bảo, thời nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, từ 07/2025 thuộc xã Nguyễn Bỉnh Khiêm thành phố Hải Phòng. Đống Thờ, nơi tổ chức lễ tang cho Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thời nay là đống có Bút Kình Thiên thuộc khu di tích. Còn đống Cụt, xưa là nghĩa trang gia đình Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, vào những năm 60 thế kỷ XX bị phá để xây dựng trường học cấp Một xã Lý Học)
8-
Cầu Trường Xuân đằng Nam
Bạch Vân Am đằng Sóc
(Nếu đứng ở trung tâm Trung Am, thì cầu Trường Xuân ở chùa Mét sẽ nằm chếch về phía Nam. Còn Bạch Vân Am nằm bên hữu ngạn sát sông Kim (từ năm 1890 là Thái Bình) thì sẽ nằm về phía Bắc (tiếng Hán là Sóc)
9-
Trăm cái tội
Không bằng lỗ lội làng Bái
(Giáp Xuân Lôi, sau là Bái Khê, tên Nôm là Bái, xưa thuộc làng Liêm Khê, tổng Thượng Am, huyện Vĩnh Lại, từ năm 1838 trở đi thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời nay thuộc xã Liên Am, huyện Vĩnh Bảo, từ 07/2025 thuộc xã Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành phố Hải Phòng. Xưa kia khu vực giáp Bái còn là đầm lầy san sát)
10-
Làng Bái đồng trắng nước chua
Có miếu Thần Vịt có chùa Ngàn Mai
(Có bản ghi là miếu Vua Vịt. Giáp Bái Khê, tên Nôm là Bái, xưa thuộc làng Liêm Khê, tổng Thượng Am, huyện Vĩnh Lại, từ năm 1838 trở đi thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời nay thuộc xã Liên Am, huyện Vĩnh Bảo, từ 07/2025 thuộc xã Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành phố Hải Phòng)
11-
Chếch Nam - Nghing Phong
Chếch Đông - Kim Hải
Chếch Trái - Trung Tân
(Nếu ở trung tâm Trung Am, tổng Thượng Am, thì cầu Nghinh Phong (nghĩa là đón gió) sẽ nằm chếch về phía Nam, nếu nhìn chếch về phía Đông là bể Kim, từ năm 1890 là biển Thái Bình, còn nhìn chếch về phía trái là quán Trung Tân)
12-
Ông Hàn là quan ông Ngẩy
(Câu này nói về hai bến đò ngang mang tên Hàn và Ngẩy. Bến đò Hàn ra đời trước hơn, có lượng khách qua lại nhiều hơn. Bến đò Hàn cổ nằm ở khoảng giữa từ quán Trung Tân và cầu Hàn thời nay, về sau do điều chỉnh về đường bộ, mà bến đò dịch xuống phía hạ lưu như thời nay. Bến đò Hàn cổ thuộc làng Tiền Am, tổng Thượng Am, thời nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo. Còn làng Ngải Am, tên Nôm là Ngẩy, xưa thuộc tổng Ngải Am, huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã Hòa Bình, sau thuộc xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo. Hai bến đò này từ 07/2025 thuộc xã Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành phố Hải Phòng. Ngoài ra trước đây hai bến đò ngang này còn là bến đò dọc đi nhiều nơi trong nước)
13-
Chợ Hàn đường sá xa xăm
Sáu phiên chính họp ngày Năm ngày Mười
(Chợ Hàn nằm sát bến đò Hàn, xưa thuộc làng Tiền Am, tổng Thượng Am, thời nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo họp vào các ngày 05, 10, 15, 20, 25, 30 âm lịch hằng tháng. Qua thăng trầm về việc di dời suốt nhiều thế kỷ, chợ Hàn cổ xưa thời nay chính là chợ Nam Am)
14-
Cụ Hồng là ông bác Đuống
(Câu này ý nói về hai con sông tại miền Bắc nước ta. Hồng Hà, tức sông Hồng bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc qua Lào Cai chạy lòng vòng qua nhiều tỉnh thành và đổ ra cửa biển Ba Lạt (Thái Bình và Nam Định). Đây là con sông có chiều dài dài hơn, lưu lượng nước qua rất lớn so với sông Đuống. Còn Đuống là nhánh sông Hồng, lấy theo tên Nôm của làng Hoa Am, thời Thiệu Trị đổi thành Thanh Am, xưa thuộc huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc, thời nay thuộc phường Thượng Thanh, quận Long Biên, Hà Nội. Làng này do Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm lập và đặt tên khi Người đang làm quan trong triều (1535 - 1542). Người dân làng Đuống từ đó đến giờ vẫn coi mình là Am thứ 19 của huyện Vĩnh Bảo. Sông Đuống bắt nguồn từ sông Hồng và chảy qua địa phận Hà Nội, Bắc Ninh đến Lục Đầu Giang và tiếp tục là sông Thái Bình chảy qua nhiều huyện khác rồi qua địa phận làng Trung Am và đổ ra cửa biển Thái Bình. Từ đó tới nay rất nhiều cư dân Vĩnh Bảo cũng như Hải Phòng không biết sông Đuống có liên quan tới Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm)
15-
Khoai lang làng Thói
Vải đũi làng Mao
Thuốc lào làng Trung.
Hay:
Khoai lang làng Thói
Vải đũi làng Mao
Thuốc lào Trung Am.
(Làng “khoai tiến vua” Văn Hội, tên Nôm là Thói, xưa thuộc tổng Văn Hội, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, thời nay thuộc xã Văn Hội, huyện Ninh Giang, Hải Dương. Làng nghề dệt vải đũi khá tinh xảo Mao Điền, gọi tắt là Mao, xưa thuộc tổng Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, thời nay thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, từ 07/2025 thuộc thành phố Hải Phòng. Còn làng “thuốc lào tiến vua” Trung Am, xưa thuộc tổng Thượng Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, thời nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng).
16-
Muốn ăn cơm trắng, canh ngao
Về trồng thuốc lào ở đất Trung Am
Muốn ăn cơm trắng, rạm rang
Thì về trồng thuốc Trung Am quê mình?
(Làng Trung Am, xưa thuộc tổng Thượng Am, thời nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo là địa danh thuốc lào ngon nhất vùng đất này, vì đất phèn lại chân chua, đã tạo nên thương hiệu “thuốc lào tiến vua”)
17-
Chợ Ghênh thì bán trâu bò
Dọc dài chợ Đuống chả giò, cá tôm…
(Đây là câu ca dao của xứ Kinh Bắc xưa. Chợ làng Như Kinh, tên Nôm là Ghênh, xưa thuộc làng Như Kinh, tổng Như Kinh (năm Minh Mạng thứ 5 (1824) đổi là Như Quỳnh), huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Từ cuối thế kỷ XIX thuộc huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, thời nay là thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Còn làng Hoa Am, tên Nôm là Đuống, làng này nằm bên hữu ngạn sông Đuống do Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng lập và đặt tên. Vào thời Thiệu Trị (1841) vì kiêng húy đổi thành Thanh Am vẫn thuộc tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Thời nay thuộc phường Thượng Thanh, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” thì chợ Đuống có khá nhiều hàng quán, được trải dài theo hai bên phố Đụn, ngày nay gọi là phố Yên Biên)
18-
Dù ai buôn đâu bán đâu
Nhớ ngày giỗ Trạng rủ nhau mà về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Hai Tám tháng Một nhớ về Trung Am
(Theo lịch mặt trăng, tức Âm lịch thì một năm có 12 tháng được gọi là: Giêng, Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bẩy, Tám, Chín, Mười, Một và Chạp, như vậy giỗ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm vào ngày 28 tháng 11 âm lịch)
19-
Sinh nhật Trạng Trình
Hải thành giải phóng
(Đây là câu sấm Trạng. Vì Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ngày 06 tháng 04 năm Hồng Đức thứ 22, tức ngày 13 tháng 05 năm 1491, như vậy vào sinh nhật lần thứ 464 thì Hải thành, tức thành phố Hải Phòng được giải phóng (13/05/1955)
20-
Dù ai đánh Bắc dẹp Đông
Nhớ đến lục tổng nhà ông thì đừng
(Đây là câu sấm ngữ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm)
21-
Bao giờ Tiên Lãng chia đôi
Sông Hàn nối lại thì tôi mới về
(Đây là câu sấm ngữ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tiên Lãng là huyện kế bên phía Bắc của huyện Vĩnh Bảo, còn Hàn Giang hay Tuyết Giang là con sông “Lạnh lẽo” được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt trong văn chương của Người, thực tế tên sông này là Kim (từ năm 1890 là sông Thái Bình), nhưng hầu hết người dân xứ Đông từ thời Mạc trở lại nay đều gọi là sông Hàn hay sông Tuyết)
22-
Bao giờ ngựa đá sang sông
Thì dân Vĩnh Lại Quận công cả làng
(Hà thời thạch mã độ giang
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu)
(Đây là câu sấm ngữ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vĩnh Lại là huyện cũ gồm 5 tổng bên tả ngạn sông Luộc, nay thuộc Ninh Giang và 6 tổng phía dưới huyện Vĩnh Bảo sau này)
23-
Minh Mạng thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền thì phải làm đền
Nào ai động đến doanh điền nhà ngươi?
(Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Tổng đốc Hải Dương – Yên Quảng là Nguyễn Công Trứ đã chỉ đạo di dời đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh từ hữu ngạn sông Kim vào vị trí như ngày nay, vì bên Vĩnh Bảo là bên lở, mà đền thờ cụ Trạng ở vị trí sát mép sông không thể không di dời. Đây là câu sấm Trạng, chứ thực tế Tổng đốc Nguyễn Công Trứ không trực tiếp tham gia chỉ huy)
24-
Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc rung Nam Đông với Tây…
Một ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho
hay?
(Đây là câu Sấm Trạng nói về việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa và Việt Nam Quốc dân Đảng bị tàn sát)
25-
Ba Ra trông sang
Ba Đồng ngoảnh lại
Táng tại Ao Dương
(Đây là câu sấm Trạng chỉ cho đời sau biết được phần mộ của cụ Trạng chôn ở đâu. Địa danh Ba Ra, hay Ba Gia là khu vực ngã ba sông Thái Bình và sông Hóa, còn ba Đồng là Thượng Đồng (ở xã An Hòa) và hai làng Hạ Đồng (một ở xã An Hòa và một ở xã Cộng Hiền). Từ đó có thể suy ra địa danh Ao Dương)
26-
Cha con thằng Khả
Đánh ngã bia tao
Làng xóm xôn xao
Bắt đền tam quán
(Đây là câu sấm Trạng. Câu cuối có hai từ “tam quán” nghĩa là quan tám)
27-
Bạch Vân hoàn thủy tứ bách niên
Tuyết giang phần dữ hóa tả điên
Thích thời lai sinh tầm đích huyệt
Thanh Trì khổng tộc mộ phục nguyên
Tản thần tuyên đế vi tâm phạm
Đà linh nam thế bá thánh minh
Bắc cuồng Tây nộ Đông hải biến
Mậu Tuất anh quân Việt kiến vinh
(Đây là Lời truyền lại tại bia mộ)
Dịch thơ (Vũ Hoàng):
Bốn trăm năm sau ta về
Tuyết Giang tả ngạn gò quê hóa đồng
Gặp thời tìm lại cha ông
Giải oan dòng họ anh hùng thủa xưa(1)
Được thần núi Tản, sông Đà
Chọn giao vận nước, sơn hà gặp hung(2)
Bắc cuồng, Tây nộ, biển Đông
Ấy là cơ hội cho Rồng(3) thăng thiên
(Đây là “Lời truyền lại tại bia mộ”. (1)- tức họ Mạc; (2)- Sơn hà là vị Thần núi và vị Thần sông; (3)- Nước Việt Nam)
.
Còn nữa
NGỌC TÔ (sưu tầm)

