/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Thơ

CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ NỘI ĐÔ HẢI PHÒNG

Hiện tại những câu ca dao tục ngữ, thành ngữ về nội đô Hải Phòng thời Pháp thuộc còn rất ít,...

CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ NỘI ĐÔ HẢI PHÒNG

.

       Tỉnh Hải Phòng được thành lập vào ngày 14 tháng 9 năm 1887, theo Nghị định của Thống sứ Bắc Kỳ. Tỉnh này được thành lập trên cơ sở một phần đất của tỉnh Hải Dương, bao gồm các huyện An Dương, An Lão, Nghi Dương (sau 1945 là Kiến Thụy) và năm 1893 thêm huyện Tiên Lãng. Nhiều tài liệu còn ghi thêm huyện Thủy Nguyên nữa là chưa chính xác, vì đạo Đông Triều được thành lập năm 1890 gồm 3 huyện Thủy Nguyên, Đông Triều và Chí Linh. Ngày 19 tháng 07 năm 1888 thì thành phố Hải Phòng được thành lập nằm trong tỉnh Hải Phòng. Từ thời gian này tới cách mạng tháng 8 năm 1945, ta tạm gọi là thời Pháp thuộc.

       Hiện tại những câu ca dao tục ngữ, thành ngữ về nội đô Hải Phòng thời Pháp thuộc còn rất ít, chúng tôi đang tìm kiếm, khai mở một “góc nhỏ văn hóa” về mảnh đất nội đô Hải Phòng. Mọi ý kiến đóng góp xin gửi theo E-mail: tongocthachhp@gmail.com  

 

1-

Hải Phòng có bến Sáu Kho

Có sông Tam Bạc có lò Xi măng

 

       (Theo bản đồ huyện An Dương thời Đồng Khánh (1886), thì cảng Ninh Hải I là khu vực bến Sáu Kho sau này, xưa thuộc thực địa làng Liễu Viên, từ cuối thế kỷ XVII đổi là Da Viên, tổng Da Viên, thời cách mạng là khu vực cảng Chính nằm trên phố Hoàng Diệu. Còn Tam Bạc xuyên (三泊川), tức sông Tam Bạc, nghĩa là sông có 3 bến đỗ, song “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” lại ghi hoàn toàn không hợp lý: sông Tam Bạc là sông Trạm Bạc. Rồi từ năm 1899, thì Nhà máy Xi măng bắt đầu được xây dựng ở cánh đồng Hạ Lý (tức làng Hạ), thời cách mạng thuộc phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng. Sông Cấm thời phong kiến được tính từ bến phà Bính thời nay hắt xuống biển, còn từ năm 1890 thì tính từ ngã ba Nông kéo xuống tới biển, tức bằng sông Cấm cũ và sông Kiền Bái cộng lại. Đây là câu thơ của Thi nhân Lê Đại Thanh viết năm 1931, sau này một số câu thành ca dao)

 

2-

Anh là trai tráng Hải Phòng
Chạy tàu Phi Hổ vào trong Ninh Bình
Thấy em nhỏ nhắn tươi xinh
Anh mới thuận tình liều nắm cổ tay
Nắm rồi anh mới hỏi đây
Ai nặn nên trắng, ai xây nên tròn?

 

       (Phi Hổ là con tàu lớn trong số các tàu trong “Giang hải luân thuyền Bạch Thái công ty”, tức công ty vận tải thủy của Bạch Thái Bưởi lập vào năm 1916. Trong số các tuyến chở khách và hàng hóa đường thủy, nơi đến xa nhất là bến Thủy (Nghệ An) và có tuyến Hải Phòng - Ninh Bình do tàu Phi Hổ và tàu Bái Tử Long đảm nhiệm).

  

3-

Sáng ngõ Thối

Tối ngõ Cấm

 

       (Ngõ Hoa Khai, thường gọi là ngõ Thối, sát vách Trường PTTH Ngô Quyền, xưa thuộc thực địa làng An Biên, tổng Đông Khê, thời cách mạng là ngõ số 2 Mê Linh, quận Lê Chân. Ngõ này có nhiều quán ăn sáng chất lượng, giá cả phải chăng. Còn ngõ Cấm, xưa là cánh đồng làng Liễu Viên, cuối thế kỷ XVII đổi thành Da Viên vì kiêng húy, trong làng có giáp chính tên Cấm, nên làng này có thể gọi là Cấm. Khi người Pháp quy hoạch lại thành phố, thì thôn dân làng Cấm di chuyển tới cánh đồng của làng, thời nay là phường Gia Viên. Ngõ Cấm lúc trước là ngõ 113 phố Lê Lợi thuộc quận Ngô Quyền, thời nay ngõ này trở thành phố Cấm thuộc quận Ngô Quyền. Trước đây ngõ này là khu vui chơi giải trí của nội đô Hải Phòng.

 

4-

Cầu Quay không thay được cầu Hạ

 

       (Cầu Quay và cầu Hạ Lý, gọi tắt là cầu Hạ, do người Pháp thiết kế và thi công, đều bắc qua sông Tam Bạc, xưa kia bên hữu ngạn là làng An Dương thuộc tổng An Dương và làng An Biên thuộc tổng Đông Khê. Thời cách mạng thuộc phường An Dương, quận Lê Chân và phường Phan Bội Châu, quận Hồng Bàng. Còn bên tả ngạn sông thuộc làng Hạ Lý, xưa thuộc tổng Da Viên, thời nay thuộc phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng. Ý câu này nói cũng là cầu nhưng không thể thay đổi chức năng được, giống như người cũng vậy)

 

5-

Chơi với dân ngõ Chéo

Chẳng bị …éo thì cũng bị lắt

 

       (Ngõ Chéo ở 50 Hạ Lý, xưa thuộc làng Hạ Lý, tổng Da Viên, nay thuộc quận Hồng Bàng. Song ở nội đô Hải Phòng còn hai ngõ Chéo nữa là ngõ 18 Lạch Tray bên Trường Chéo và ngõ bên Trường Chéo ở phố Lê Lợi, đối diện với phố cấm nữa, không rõ?)

 

6-

Quán Mau: Cô Đầu

Phố Tàu: Cháo hoa

Tê – A: Mộ phu

 

       (Quán bà Mau ở đường Đồ Sơn, sau là Trưng Nhị, rồi Trần Quốc Toản và thời nay là phố Lạch Tray. Địa điểm này, xưa thuộc làng Hàng Kênh, tổng Đông Khê. Rue Chinoise, tức phố Tàu, thời nay là phố Lý Thường Kiệt, món ăn chính là cháo hoa, khá ngon. Còn ngõ Tê –A là chữ viết tắt của Ghê-ranh Tê-a (Guérin Théard) viên chủ Pháp chuyên mộ phu và cho thuê nhà ở, trong đó quản lí số phu tuyển được trước khi đưa đi Tân Thế Giới. Xưa kia thuộc thực địa cuối làng An Biên, tổng Đông Khê, thời cách mạng là phố Chu Văn An, quận Ngô Quyền)

      

7-

Đập cầu Quay

Xây cầu Hạ

 

       (Cầu Quay và cầu Hạ Lý, gọi tắt là cầu Hạ, do người Pháp thiết kế và thi công, đều bắc qua sông Tam Bạc, xưa kia bên hữu ngạn là làng An Dương thuộc tổng An Dương và làng An Biên thuộc tổng Đông Khê. Thời cách mạng thuộc phường An Dương, quận Lê Chân và phường Phan Bội Châu, quận Hồng Bàng. Còn bên tả ngạn sông thuộc làng Hạ Lý, xưa thuộc tổng Da Viên, thời nay thuộc phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng. Ý câu này nói làm việc gì cũng phải tính trước tính sau, không vội vã dễ xôi hỏng bỏng không)

 

8-

Điểm tâm ngõ Thối

Lễ bái – Đồng Lùn

 

       (Ngõ Hoa Khai, thường gọi là ngõ Thối, sát vách Trường PTTH Ngô Quyền, xưa thuộc thực địa làng An Biên, tổng Đông Khê, thời cách mạng là ngõ số 2 Mê Linh, quận Lê Chân. Còn ngõ Đồng Lùn, xưa thuộc thực địa làng Liễu Viên, sau là Da Viên, thời cách mạng là ngõ 239 phố Lê Lợi, quận Ngô Quyền. Vì trong ngõ có điện thờ là bà Đồng nhưng chiều cao hơi bị khiêm tốn, nên mới có tên như vậy)

 

9-

Hải Phòng phong cảnh hữu tình

Thuyền buôn, thuyền bán rập rình bên sông

 

       (Ngày 19 tháng 07 năm 1888, thì thành phố Hải Phòng được thành lập nằm trong tỉnh Hải Phòng. Trụ sở chính xưa là trung tâm làng Liễu Viên, từ cuối thế kỷ XVII là Da Viên, thuộc tổng Da Viên nằm sát bên hữu ngạn sông Cấm. Bên bờ hữu có cảng Ninh Hải II, nay là cảng Chính và Ninh Hải I, nay là cảng Cửa Cấm)

 

10-

Ông Lý Tiêm

Kiêm (bà) Lý Phình

 

       (Ngõ Lý Tiêm nằm ở thực địa làng Hàng Kênh, xưa thuộc tổng Đông Khê, thời cách mạng là ngõ 56 Trần Quốc Toản, trước đây là đường Đồ Sơn, rồi đường Trưng Nhị, thời nay là ngõ 46 Lạch Tray, phường Lạch Tray. Ngõ này thông sang bên ngõ 63 phố Hàng Kênh, mà phần thực địa của ông Lý trưởng làng là Đặng Tước, có con trai là Phình, nên gọi là Lý Phình là vậy)

 

11-

Vợ Rồng, chồng Sắt

 

       (Đây là câu ca “vợ chợ Rồng, chồng chợ Sắt”, ý nói là hai chợ lớn của hai tỉnh Nam Định và Hải Phòng và có mối quan hệ mật thiết, bổ trợ cho nhau)

 

12-

Đi xem Nhà hát Bé

Dễ vé hơn hát Lớn

 

       (Thời Pháp thuộc, người Pháp đã xây dựng một nhà hát khá hoành tráng tại khu vực chùa Linh Quang, hay gọi là chùa Vẻn vào đầu thế kỷ XX, trên nóc nhà hát ghi “THEATRE”, nghĩa là Nhà hát thôi, vì thành phố Hải Phòng lúc ấy còn quá khiêm tốn về quy mô, diện tích và dân số. Sau này thành phố phát triển thì mới đặt tên là Nhà hát Lớn, còn Nhà hát Bé ở 189 phố Phan Bội Châu, nay là Nhà hát Phương Đông thời cách mạng)

 

13-

Hội quán Trí Tri

Vân vi ngõ Chuối

Bối rối Tò Vò

Nên thơ ngõ Đá

 

       (Ngõ Trí Tri vì trước đây có hội quán Trí Tri của Hải Phòng đóng tại ngõ này số 138 phố Hai Bà Trưng, tên cũ là đại lộ An Dương, xưa thuộc thực địa làng An Biên, tổng Đông Khê, thời nay thuộc quận Lê Chân. Ngõ Chuối cổ xưa thuộc thực địa làng Liễu Viên, sau là Da Viên, tổng Da Viên, thời nay là ngõ 28 Lương Khánh Thiên, quận Ngô Quyền. Vì hai bên ngõ trước đây trồng nhiều chuối, nên mới có tên như vậy. Ngõ Tò Vò hay còn gọi là Bà Tài, xưa thuộc đất của làng An Biên, tổng Đông Khê, thời cách mạng là ngõ 17 Phạm Hồng Thái, quận Hồng Bàng. Vì trước đây cổng ngõ xây hình cuốn giống tổ tò vò, nên có tên như vậy. Còn ngõ Đá, xưa thuộc thực địa làng An Biên, tổng Đông Khê, thời nay là ngõ 43 Trần Phú hay 32 Trần Nhật Duật, quận Ngô Quyền. Vì ngõ được lát bằng đá xanh 40 X 40 cm, bên trong có biệt thự khá đẹp, nên mới gọi là ngõ Đá)

 

14-

Tưởng gì tên gọi Hàn Lâm

Hóa ra miếu cúng dân Kênh cô hồn

 

       (Tên đầy đủ là ngõ Miếu Hàn Lâm, vì lối thông ra phố Hàng Kênh là lối đi vào miếu Cô Hồn của làng Hàng Kênh, tổng Đông Khê. Vì làng này có khá nhiều người đỗ đạt, nên nhiều người lầm tưởng là miếu của quan Hàn Lâm nào đó. Thời cách mạng là ngõ 69 Chợ Con, quận Lê Chân)

 

15-

Thênh thang Sơn Hà

Ngân nga Văn Minh

Linh thiêng Đình Đông

 

       (Doanh nhân Nguyễn Sơn Hà (1894 – 1980) có xưởng làm sơn, xưa là thực địa làng Hàng Kênh, tổng Đông Khê, sau nằm ở phía phải đường Đồ Sơn, rồi Trưng Nhị, tiếp là Trần Quốc Toản, thời nay là ngõ 72 Lạch Tray. Vì hàng ngày có xe cộ vào chở hàng, nên ngõ khá rộng và cái tên ngõ lấy tên là Sơn Hà là vậy. Ngõ Văn Minh xưa thuộc làng Hàng Kênh, tổng Đông Khê, thời cách mạng là ngõ số 191 phố Hàng Kênh, quận Lê Chân. Vì trong ngõ có rạp hát Văn Minh, nên ngõ lấy tên là vậy, chứ người dân ở ngõ này khá ô hợp. Còn ngõ Đình Đông là gọi theo tên Nôm, tức đình thuộc giáp Đông của làng Hàng Kênh, ta có thể hiểu đình Đông nằm trong ngõ này, xưa thuộc thực địa làng Hàng Kênh, tổng Đông Khê, thời cách mạng là ngõ 122 phố Đình Đông, quận Lê Chân)

 

16-

Tôm cá Đà Cụ

Kỹ nữ quán Mau

Trầu cau làng Vẻn

 

       (Đà Cụ (沱埧), nghĩa là đê sông nhánh, từ thập niên 20 thế kỷ XX là một giáp của làng Đông Khê, tổng Đông Khê, sau này là An Đà, thời nay là phường An Đà, quận Ngô Quyền. Theo bản đồ thành phố Hải Phòng do người Pháp làm, thì xung quanh Đà Cụ và Đông Khê là đầm hồ và sông nhánh, vậy nên có rất nhiều tôm cá. Quán Bà Mau gọi tắt là quán Mau, xưa thuộc thực địa làng Hàng Kênh, thời nay bên số chẵn phố Lạch Tray thuộc phường Lạch Tray. Còn trại Cau của làng An Biên, tên Nôm làng này là Vẻn, tổng Đông Khê, thời cách mạng là phường Trại Cau, quận Lê Chân, nơi đây trồng khá nhiều cau ăn quả, nên mới có tên như vậy)

 

17-

Lấy chồng làng Rế ăn cơm

Lấy chồng làng Niệm ngoác mồm ăn khoai

 

       (Làng Đồng Giới, tên Nôm là Rế, xưa thuộc tổng Văn Cú, nay thuộc quận An Dương. Còn làng Vĩnh Niệm, gọi tắt là Niệm, xưa thuộc tổng An Dương, từ cuối thế kỷ XIX khi đào kênh Lạch Tray nối từ sông Lạch Tray vào sông Tam Bạc, thì Vĩnh Niệm bị cắt làm hai nửa, nửa trên cho Trang Quán và An Dương, nửa dưới cho Niệm Nghĩa. Chính thức làng Vĩnh Niệm bị mất tên, còn Vĩnh Niệm ở phường Vĩnh Niệm ngày nay mới được mang tên từ sau năm 1975)

 

18-

Thượng chí Tam Bạc

Hạ chí An Đà

 

       (Câu ca trên nói về địa giới làng An Biên, tức Vẻn. Phía Tây Bắc là sông Tam Bạc, tức khu vực chợ Sắt thời nay, còn phía Đông Nam giáp An Đà (安沱), nghĩa là sông nhánh An Dương hay kênh An Dương, bên kia kênh là thôn Đà Cụ, làng Đông Khê, tổng Đông Khê, thời nay là hồ An Biên sau Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Tiệp)

 

19-

Chơi với dân chợ Sắt

Chẳng bị chặt cũng bị chém

 

       (Chợ Sắt, còn được gọi là chợ Lớn (Grande Marché), được xây dựng bằng khung sắt và sau bán nhiều đồ kim khí. Chợ được xây dựng vào đầu thế kỷ XX bên hữu ngạn sông Tam Bạc, thực địa làng An Biên, tổng Đông Khê, thời cách mạng thuộc quận Hồng Bàng. Nay đã di dời về bên hữu ngạn sông Lạch Tray, thuộc quận Kiến An)

 

30-

Mua bán chợ Con

Thuận hơn chợ Lớn

 

       (Chợ Con được xây dựng vào đầu thế kỷ XX ở thực địa làng Hàng Kênh, tổng Đông Khê, thời nay ở khu phố Chợ Con, quận Lê Chân. Còn chợ Sắt được đặt ở khu Nhượng Địa, nên gọi là chơn Lớn. Chợ con là chợ bán lẻ, phục vụ đại đa số người lao động, giá cả vừa phải và đa dạng mặt hàng nông lâm thủy sản. Cách đó không xa là miếu Hàn Lâm, nơi cúng cô hồn cho thôn dân địa phương)

 

21-

Rể ngồi quán bánh đa cua

Ăn vào thấy tuyệt mới mua đem về

Bố vợ vừa ngửi đã mê

Lần sau có về. Nhớ bánh đa cua?

 

       (Bánh đa cua là món ngon của thành phố Hải Phòng)

 

22-

Mỗi ngày sông cứ dài thêm

Hải Phòng thực địa nên duyên mỗi ngày

 

       (Thành phố Hải Phòng có ngũ giang (5 sông) chính thông ra biển là Thái Bình, Văn Úc, Lạch Tray, Cấm và Bạch Đằng, hằng năm không biết bao nhiêu triệu tấn trầm tích phù sa được bồi đắp. Từ hồi phía thượng nguồn làm đập thủy điện, thì lượng phù sa giảm đi quá nhiều)

 

23-

Chơi với ai, thì ai

Gặp Chè Chai, nên tránh

 

       (Chè Chai là ngõ từ phố Hoàng Văn Thụ nối chéo sang phố Trần Quang Khải, trước đây là nơi cư trú của dân nghèo thành thị, đa số làm nghề chè chai lông vịt, nhà cửa lụp xụp tạm bợ, nhiều thành phần bất hảo hay tụ tập về đây)

 

 

       (Còn nữa)

 

       NGỌC TÔ (Sưu tầm)