/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Thơ

CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN AN DƯƠNG

Huyện An Dương được thành lập vào năm Quang Thuận thứ 10 (1469) trên cơ sở tách ra từ huyện Cổ Phí và huyện Giáp Sơn.

CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN AN DƯƠNG

.

       Huyện An Dương được thành lập vào năm Quang Thuận thứ 10 (1469) trên cơ sở tách ra từ huyện Cổ Phí và huyện Giáp Sơn. Tại sao chúng tôi lại đưa ra nhận định như vậy vì thời thuộc Minh làng Liễu Viên thuộc huyện Giáp Sơn, đến cuối thế kỷ XVII em trai Trịnh Căn là Trịnh Liễu nắm quyền quân đội, thì làng Liễu Viên đổi thành Gia Viên. Chúng tôi đã sưu tầm được một số câu ca dao tục ngữ, thành ngữ cổ của huyện An Dương cổ, tức lúc tỉnh Hải Phòng chưa ra đời.

 

1-

Lục từ linh thiêng

Trạm Xuyên trường tồn

 

       (“Sáu đền thiêng” được triều đình nhà Nguyễn công nhận và ghi trong sách “Đồng Khánh địa dư chí” giống như các di tích được xếp hạng cấp quốc gia ngày nay gồm: Đền thờ Ngô Vương, tức vua Ngô Quyền ở làng Lang Thâm, tổng Lang Thâm, từ năm 1891 là Lương Xâm. Mới đây đền này được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích cấp quốc gia đặc biệt, nhưng tên gọi thật tối nghĩa và viết sai ngữ pháp tiếng Việt là “từ Lương Xâm”; Đền thờ Đức Thánh Trần, tức Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn tại làng Phú Xá, xưa thuộc tổng Hạ Đoàn; Đền thờ Nữ thần Liễu Hạnh ở làng Thượng Đoàn xưa thuộc tổng Hạ Đoàn. Ba đền thờ trên thời nay thuộc quận Hải An; Đền thờ thần Lôi Công ở làng Vân Tra, xưa thuộc tổng Văn Cú, thời nay thuộc xã An Đồng, huyện An Dương; Đền thờ Phạm Tử Nghi ở làng Vĩnh Niệm và làng An Dương, xưa thuộc tổng An Dương, thời nay thuộc thôn Cái Tắt xã An Đồng và phường An Dương, quận Lê Chân; Đền thờ thần Cao Sơn ở làng Trí Yếu, xưa thuộc tổng Điều Yêu, thời nay thuộc xã Đặng Cương, huyện An Dương. Từ thời Đồng Khánh (1888) trở về trước chỉ có sáu đền (miếu) trên được triều đình phong kiến vinh danh, còn các đền miếu khác thời nay được cấp bằng di tích đều do chính quyền cách mạng (sau năm 1945) làm. Sau khi tỉnh Hải Phòng được thành lập, thì người Pháp đã cắt một phần thực địa của huyện Giáp Sơn, sau là Kim Thành và tổng Vụ Nông về huyện An Dương. Từ 1901 trở đi huyện An Dương có thêm một đền thờ nữa mang tên Thượng thư Phạm Đình Trọng ở làng Khinh Dao, xưa thuộc tổng Vụ Nông, thời nay thuộc xã An Hưng, huyện An Dương và lúc này huyện An Dương có tới bảy đền thờ linh thiêng, còn gọi là “thất linh từ”; Hai từ Trạm Xuyên (湛川), từ viết tắt của Trạm Bạc xuyên, tức sông Trạm Bạc. Con sông này bắt nguồn từ làng Trạm Bạc, xưa thuộc tổng Văn Cú, thời nay thuộc xã Lê Lợi, huyện An Dương xuống phía hạ nguồn)

 

2-

Ngô Vương – Lang Thâm

Thánh Trần – Phú Xá

 

       (Tức đền thờ Ngô Quyền ở làng Lang Thâm, xưa thuộc tổng Lang Thâm, thời cách mạng gọi là Lương Xâm, thời nay thuộc phường Nam Hải, quận Hải An. Đây là nơi thờ vua Ngô Quyền, chứ vào thế kỷ IX thì toàn bộ nội thành Hải Phòng thời nay từ tổng Quỳnh Hoàng (tức khu Vật Cách ngày nay) hắt xuống tới biển còn là biển cả. Còn đền thờ Trần Hưng Đạo ở làng Phú Xá, xưa thuộc tổng Hạ Đoàn, thời nay thuộc phường Đông Hải I quận Hải An. Đây là hai đền nổi tiếng thời phong kiến thờ Dương thần tại huyện An Dương)

 

3-

Hiếu học làng Kênh

Lênh đênh làng

 

       (Làng Hàng Kênh, gọi tắt là Kênh, còn Dư Hàng là xóm Dư, xóm Thừa của làng Kênh tách ra, xưa thuộc tổng Đông Khê, nay thuộc quận Lê Chân. Còn làng Vũ là Vũ Yên (An) gồm cả đảo Định Vũ, thời đầu Nguyễn thuộc tổng Hạ Đoàn, huyện An Dương, từ năm 1891 trở đi thuộc tổng Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên. Thời cách mạng do thành phố quản lý, ngày nay là đảo “Tỷ phú” bên tả ngạn sông Cấm)

 

4-

An Dương – Trung Hành

Kim Thành – Quỳnh Khê

 

       (Làng Trung Hành xưa thuộc tổng Trung Hành, huyện An Dương, thời nay thuộc phường Đằng Lâm, quận Hải An, Hải Phòng. Còn làng Quỳnh Khê, xưa thuộc tổng Cam Đường, huyện Kim Thành, thời nay thuộc xã Kim Xuyên, huyện Kim Thành, Hải Dương. Hai làng này có tiếng hiếu học, nhiều khoa bảng)

 

5-

Trai Lang Thâm vừa dâm vừa dê

Gái Đông Khê cưới về đã đẻ

 

       (Làng Lang Thâm, tên Nôm là Dâm hay Giầm, xưa thuộc tổng Lang Thâm, từ đầu thế kỷ XX gọi là Lương Xâm, từ năm 1924 thuộc xã Nam Hải huyện Hải An, thời nay thuộc phường Nam Hải, quận Hải An. Còn làng Đông Khê thuộc tổng Đông Khê, thời nay thuộc phường Đông Khê, quận Ngô Quyền)

 

6-

Trai Thâm Bồ chưa xô đã ngã

Gái làng Hạ chưa gạ đã theo

 

       (Thâm Bồ xưa là một giáp có nhiều lau lác của làng Lang Thâm, từ năm 1891 trở thành đơn vị hành chính cấp làng thuộc tổng Lang Thâm và sau đó đổi thành Lương Xâm. Còn làng Hạ, tức Hạ Lý thuộc tổng Liễu Viên, từ cuối thế kỷ XVII Liễu Viên đổi thành Da Viên, từ khi nước ta dùng chữ quốc ngữ thì Da đổi thành Gia, thời nay là phường Thượng Hạ Lý và Trại Chuối, quận Hồng Bàng)

 

7-

Chơi với dân làng Rế

Chẳng mất nghé cũng mất trâu

 

       (Làng Đồng Giới, tên Nôm là Rế, xưa thuộc tổng Văn Cú, thời nay thuộc thị trấn An Dương, huyện An Dương).

 

8-

Trai Hy Tái

Gái Điều yêu

Kiêu Vạn Mỹ

Đĩ Liễu Viên

 

      (Làng Hy Tái xưa thuộc tổng Điều Yêu, thời nay thuộc xã Hồng Thái. Làng Điều Yêu, sau tách làm ba làng Điều Yêu Thượng, Điều Yêu Trung và Điều Yêu Hạ, xưa cùng tổng Điều Yêu, thời nay thuộc xã Hồng Thái và Quốc Tuấn. Làng Vạn Mỹ xưa thuộc tổng Hạ Đoàn, thời nay là phường Vạn Mỹ quận Ngô Quyền và một phần phường Đông Hải I quận Hải An. Làng Liễu Viên thuộc tổng Liễu Viên, từ cuối thế kỷ XVII đổi thành Da Viên, từ 1887 là khu vực trung tâm Hải Phòng, đình làng có đa cổ thụ nay vẫn còn ở khuôn viên UBND thành phố, thời nay thuộc phường Minh Khai, quận Hồng Bàng)

 

9-

Chơi với dân Điều Yêu

Chẳng đầu biêu thì cũng dập trán

       

       (Làng Điều Yêu, xưa thuộc tổng Điều Yêu, nay là các thôn: Kiều Thượng, Kiều Hạ (xã Quốc Tuấn); Kiều Trung, Kiều Đông (xã Hồng Thái).

 

 

10-

Muối Vạn An

Cam Đồng Dụ

Đồ Sơn

 

       (Làng Vạn An (Yên) gồm đảo Vũ Yên và đảo Định Vũ, xưa thuộc tổng Hạ Đoàn, thời nay là đảo Vũ Yên và phường Đông Hải II quận Hải An. Làng Đồng Dụ xưa thuộc tổng Văn Cú, thời nay thuộc xã Đặng Cương huyenj An Dương. Còn làng Đồ Sơn thuộc tổng Đồ Sợn, huyện Nghi Dương, ngày nay thuộc quận Đồ Sơn, dân chuyên làm nghề chài lưới phải chèo thuyền nhiều, nên ngực nở nang)

 

11-

Chơi với dân làng Rào

Chẳng mất dao thì cũng mất thớt

 

       (Làng Lực Hành tên Nôm là Rào, xưa thuộc tổng Trung Hành, thời nay thuộc phường Đằng Lâm, quận Hải An)

 

12-

Chó Khinh Dao cắn ra chữ

Chó Đồng Dụ cắn ra hoa

Chó Tiên Sa cắn ra đăng đó

 

       (Làng Khinh Dao, tổng Vụ Nông, thời nay thuộc xã An Hưng, thời phong kiến làng này có 4 Tiến sỹ Nho học là Nguyễn Hiếu Trung đỗ năm 1478, Lê Công Truyền đỗ năm 1481, Nguyễn Đôn đỗ năm 1541 và Phạm Đình Trọng đỗ năm 1739, làm tới chức Thượng thư bộ Binh, được ban tước Hải Quận công. Và còn nhiều người đỗ Hương cống, Sinh đồ thời Lê – Nguyễn ; Làng Đồng Dụ, xưa thuộc tổng Văn Cú, thời nay thuộc xã Đặng Cương có nghề trồng hoa, cây cảnh; Làng Tiên Sa xưa thuộc tổng Điều Yêu, thời nay thuộc xã Hồng Thái)

 

13-

Chơi với dân làng Bớp

Mất cả hóp lẫn tre

       

       (Làng Phụng Pháp (tên Nôm là Bớp hay Phọng), xưa thuộc tổng Đông Khê, thời nay thuộc phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền. Còn hóp là tre thân nhỏ, dày và thẳng, có gióng dài, thường được dùng làm cần câu hay sào màn)

 

14-

Hay ăn làng An

Hay làm làng Niệm

Tùng tiệm làng Đôn

Đĩ “mồm” Cái Tắt

 

       (Làng An Dương gọi tắt là An, xưa thuộc tổng An Dương, thời nay thuộc phường An Dương quận Lê Chân và thôn An Dương xã An Đồng; Làng Niệm Nghĩa gọi tắt là Niệm, xưa thuộc tổng An Dương, sau 1923 là Niệm Nghĩa và Nghĩa Xá, thời nay là phường Niệm Nghĩa và phường Nghĩa Xá quận Lê Chân; Làng Đôn Nghĩa gọi tắt là Đôn, xưa thuộc tổng An Dương, thời nay thuộc phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân; Còn Cái Tắt trước đây là một giáp của làng Vĩnh Niệm cổ thuộc tổng An Dương, sau này trở thành đơn vị hành chính của tổng An Lạc, thời nay thuộc xã An Đồng, huyện An Dương. Câu ca này của tổng An Dương, huyện An Dương)

 

15-

Chơi với dân Thâm Đông

Mất cả gồng lẫn gánh

 

       (Làng Thâm Đông xưa thuộc tổng Lang Thâm, từ năm 1891 là Xâm Đông thuộc tổng Lương Xâm, thời nay thuộc phường Nam Hải, quận Hải An)

 

16-

Lưới vó Đồng Xá

Rau cá làng Rào

Thớt dao làng Cát

 

       (Đây là chợ của làng Đồng Xá, xưa thuộc tổng Trực Cát, tới chiến tranh thế giới lần 2 (1938), thì làng này phiêu tán đi nhiều nơi khác để làm Sân bay Cát Bi. Còn chợ làng Lực Hành, tên Nôm là Rào, là nơi huyện lỵ An Dương nhiều năm đóng tại đây, thời nay thuộc phường Đằng Lâm quận Hải An. Còn làng Cát ở khu vực này chúng tôi chưa rõ là Trực Cát, hay Cát Bi, hay Cát Khê, xưa đều thuộc tổng Trực Cát, thời nay thuộc phường Tràng Cát, quận Hải An).

 

17-

Văn Cú

Phú Lộng Điền

Tiền Phú Hậu

 

       (Làng Văn Cú, xưa thuộc tổng Văn Cú, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, thời cách mạng thuộc xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Làng Lộng Điền xưa thuộc tổng Thượng Kỳ, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam Hạ, thời nay thuộc xã Nghĩa Đồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Làng Phú Hậu, xưa thuộc tổng Cao Mật, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây, thời nay là làng Phú Hậu, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc)

 

18-

Trai Hàng Kênh, Phụng Pháp

Gái Lũng Bắc, Cát Bi

 

       (Làng Hàng Kênh và làng Phụng Pháp, xưa thuộc tổng Đông Khê, thời nay là phường Hàng Kênh, Đông Hải và Đằng Giang, quận Lê Chân và làng Lũng Bắc, xưa thuộc tổng Lang Thâm, thời nay là phường Đằng Hải, quận Hải An, còn làng Cát Bi, xưa thuộc tổng Trực Cát, thời nay là phường Cát Bi, quận Hải An. Mấy làng này trai tài gái sắc)

 

19-

Ông Khách thách ông Đạt

 

       (Ông Khách, tức bến đò Khách. Bến đò này được ghi trong sách “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” của Thượng thư bộ Binh, TS Nho học Lê Quang Định năm 1806, tức bến đò từ làng Đào Yêu, xưa thuộc tổng Điều Yêu, nay thuộc phường Hồng Thái, quận An Dương. Còn bên hữu ngạn sông là thôn Địa Chất, xưa thuộc tổng Văn Đẩu, huyện An Lão, thời nay thuộc phường Bắc Sơn, quận Kiến An; Ông Đạt, tức bến đò Đạt, thời trước ở khu cực làng Niệm Nghĩa, còn bên hữu ngạn sông thuộc tổng Đống Khê, huyện Nghi Dương. Từ khi có cầu Niệm (1934) bến đò này đã dịch chuyển xuống hạ lưu thuộc làng Đôn Nghĩa cùng tổng Đông Khê, thời nay thuộc khu Vinhome Marina cầu Rào. Còn bên hữu ngạn sông là làng Cổ Trà, tổng Cổ Trà, huyện Nghi Dương, thời nay là phường Hưng Đạo, quận Dương Kinh. Câu này ý nói số lượng khách qua đò Khách không kém gì đò Đạt)

 

20-

Nông sản chợ Hạ

Giống má chợ Đôn

Bán buôn chợ Đông

Cá tôm chợ Cấm

 

       (Chợ Hạ Lý, gọi tắt là Hạ, xưa thuộc tổng Liễu Viên, sau là Da Viên, nay là phường Thượng – Hạ Lý, Trại Chuối, quận Hồng Bàng. Chợ Đôn Nghĩa, gọi tắt là Đôn, xưa thuộc tổng An Dương, thời nay thuộc phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân. Chợ Đông Khê, gọi tắt là chợ Đông hay còn gọi là chợ Tổng, xưa thuộc tổng Đông Khê, thời nay thuộc phường Đông Khê, quận Ngô Quyền. Còn chợ làng Liễu Viên, có giáp chính là Cấm, nên còn gọi với tên khác là Cấm, đến cuối thế kỷ XVII thì Liễu Viên đổi là Da Viên, từ khi nước ta dùng chữ Latin thì Da đổi thành Gia, nay thuộc khu vực UBND thành phố là phường Minh Khai, quận Hồng Bàng. Trang 485 sách “Đại Nam nhất thống chí” có ghi: “Chợ Da Viên và Đông Khê ở huyện An Dương, tỉnh Hải Dương”)

 

21-

Bưởi Đại Trà

Văn Cú

Đồ Sơn

 

       (Làng Đại Trà, xưa thuộc tổng Đại Trà, huyện Nghi Dương, thời nay thuộc xã Đông Phương huyện Kiến Thụy. Làng Văn Cú, xưa thuộc tổng Văn Cú, huyện An Lão, thời nay thuộc xã An Đồng, huyện An Dương. Còn Đồ Sơn xưa thuộc huyện Nghi Dương, sau này là huyện Kiến Thụy, thời nay thuộc quận Đồ Sơn)

 

22-

Dân Trang Quán

Sáng sửa bừa

Trưa sửa cày

Tối ngày mới vội

 

       (Làng Trang Quán, xưa thuộc tổng An Dương, thời cách mạng là thôn Trang Quan, xã An Đồng, huyện An Dương. Tính cách thôn dân này hơi rề rà)

 

23-

Dân Vẻn ngâm bẹn dưới kênh

Dân Trung Hành ngông nghênh mũ áo

 

       (Làng An Biên, tên Nôm là Vẻn, xưa thuộc tổng Đông Khê, thời cách mạng thuộc phường An Biên, quận Lê Chân và bên hữu ngạn sông Tam Bạc khu vực chợ Sắt, quận Hồng Bàng. Thôn dân làng này làm nghề đánh bắt cá, suốt ngày phải ngâm mình dưới nước. Còn làng Trung Hành, xưa thuộc tổng Trung Hành, thời cách mạng thuộc phường Đằng Lâm, quận Hải An, dân làng này khá hiếu học, thời phong kiến có nhiều rất người đỗ đạt)

.

24-

Vân Tra trở đậu thiên niên tại

Hậu Lý sơn hà đệ nhất công

       Dịch nghĩa:

Vân Tra thờ cúng nghìn năm giữ

Hậu Lý non sông đệ nhất công

 

       (Làng Vân Tra, xưa thuộc tổng Điều Yêu, thời cách mạng thuộc xã An Đồng có đền thờ Thành hoàng Đào Lôi khá linh thiêng)

 

25-

Cam ấp tân khai thiên thế giới

Lý triều cựu tích địa danh lam

       Dịch nghĩa:

Ấp Cam mới mở trời thế giới

Triều Lý tự xưa đất danh lam

 

       (Làng Cam Lộ, xưa thuộc tổng Quỳnh Hoàng, huyện Giáp Sơn, sau về huyện An Dương, thời cách mạng là phường Hùng Vương quận Hồng Bàng)

 

26-

Gạch ngói Quỳnh Cư

Cầu mưa Vân Tra

      

       (Làng Quỳnh Bảo, xưa thuộc tổng Quỳnh Hoàng, từ năm 1891 là Quỳnh Cư, tổng Quỳnh Hoàng, huyện An Dương, thời cách mạng là phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng. Còn làng Vân Tra, xưa thuộc tổng Điều Yêu, thời cách mạng thuộc xã An Đồng có đền Lôi Công khá nổi tiếng về cầu mưa, một trong “Thất Linh từ” của huyện An Dương cổ)

 

27-

Xích Thổ, Hy Tái, Hoa Phong

Xa xưa một gốc, bên dòng Nại Xuyên

 

       (Làng Xích Thổ và Hy Tái, xưa thuộc tổng Điều Yêu, thời cách mạng thuộc xã Hồng Thái. Làng Hoa Phong, thời Thiệu Trị đổi thành Kiến Phong, thời cách mạng thuộc xã Đồng Thái. Ba làng này thời cổ xưa cùng một tổng và có liên quan gốc gác tới nhau. Còn Nại Xuyên, tức sông Nại, đến 1890 thì đổi là Lạch Tray)

 

28-

Trai Hy Tái

Gái Xích Thổ

 

       (Làng Hy Tái và Xích Thổ, xưa thuộc tổng Điều Yêu, thời cách mạng thuộc xã Hồng Thái. Làng Xích Thổ có nghề thu gom phế liệu (chè chai), hay đi mây về gió, nên con gái làng này và con trai Hy Tái thuộc loại ghê gớm)

 .

29-

Chơi với dân Mai

Nước hai mà nói

 

     (Làng Hoàng Mai, gọi tắt là Mai)

 

30-

Ông Mai bằng hai ông Nống

 

       (Đò Mai có lưu lượng khách qua gấp đôi đò Nông, sau này là Nông ở xã Đại Bản An Dương)

 

31-

Thứ nhất Kinh Kỳ

Thứ nhì Dầu Hổ

 

       (Giáp Dầu Hổ thuộc tổng Vụ Nông, huyện Giáp Sơn, từ đầu thế kỷ XX tổng này được cắt về huyện An Dương, thời cách mạng thuộc xã Tân Tiến, huyện An Dương. Là nơi buôn bán thuận lợi trên bến dưới thuyền)

 

32-

Chơi với dân Hà Nội

Chẳng bị tội thì cũng bị vạ

 

       (Làng Hà Nội xưa thuộc tổng Hà Nội, từ năm 1831 tỉnh Hà Nội được thành lập, thì làng này đổi thành Hà Nhuận, thời cách mạng thuộc xã An Hòa, huyện An Dương).

 

33-

Trai Đông Khê chân đen như cuốc

Gái Đông Khê eo óp vẹo xương hông

 

34-

Bên kia Vạn Mỹ nhìn sang

Bến đò bà Chiệc ngang sang cầu Gù

 

       (Vì cầu có hai mố gạch xây cao, thân cầu xây cuốn vỉa gạch xếp hàng cau, hình parabon cho thuyền nhỏ qua, nên thôn dân địa phương gọi là cầu Gù)

 

35-

Đầu Đông đuôi Do

Giữa gò Trang Quán

 

       (Sông Do là sông từ giáp Do làng Định Vũ, tổng Hạ Đoàn, huyện An Dương, từ năm 1891 thuộc tổng Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên chảy về phía Nam đổ ra cửa biển gọi là cửa biển Do sát với cửa Lạch Tray, sông này bị lấp vào năm 1990 lúc thành phố làm đập Định Vũ (từ thời Khải Định nắm quyền, kiêng húy gọi là Đình Vũ, nhưng trong văn viết vẫn ghi Định Vũ). Còn làng Trang Quán xưa thuộc tổng An Dương, thời nay thuộc xã An Đồng, huyện An Dương. Câu ngạn ngữ này tả về địa thế huyện An Dương cổ. Có tài liệu sau viết là Tam Quán)

 

36-

Làng Cấm ăn trắng mặc trơn

Chẳng phải lấm L vẫn có cái ăn

 

       (Làng chài Liễu Viên, tổng Liễu Viên, huyện Giáp Sơn, từ năm 1469 thuộc huyện An Dương, đến cuối thế kỷ XVII đổi thành Da Viên, làng này có giáp chính là Cấm, nên còn có tên gọi khác là Cấm, xưa thuộc tổng Da Viên. Vì cảng Ninh Hải thuê thực địa của làng Cấm, nên chị em không phải đi mò cua bắt ốc vẫn có tiền tiêu)

 

37-

Ông Hổ là bố ông Nại

 

       (Câu ca này nói về hai con sông. Sông chính mang tên Hổ Mang, từ năm 1890 là sông Văn Úc, còn sông nhánh là sông Nại, từ năm 1890 là sông Lạch Tray)

 

38-

Chưa đi chưa biết chợ Đôn

Đi rồi mới thấy toàn ồn với đoi

Nghe đi nghe mãi… quen rồi

Lúc xa lại nhớ tiếng ôi ối ồn…

 

       (Chợ làng Đôn Nghĩa, gọi tắt là Đôn, xưa thuộc tổng An Dương, thời nay thuộc phường Vĩnh Niệm – Nghĩa Xá, quận Lê Chân)

 

 

 

NGỌC TÔ (Sưu tầm)

(Còn nữa)