/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Thơ

CA DAO TỤC NGỮ CỔ VỀ HUYỆN VĨNH BẢO – HẢI PHÒNG

Lục tổng phía trên của huyện Vĩnh Bảo là phần thực địa của huyện Tứ Kỳ cổ, còn lục tổng phía dưới là thực địa của huyện Vĩnh Bảo.

TỤC NGỮ CA DAO CỔ VỀ HUYỆN VĨNH BẢO – HẢI PHÒNG

.

 

CA DAO TỤC NGỮ CỔ VỀ HUYỆN VĨNH BẢO – HẢI PHÒNG

.

Huyện Vĩnh Bảo được thành lập vào năm 1838 gồm 5 tổng của huyện Tứ Kỳ và 3 tổng của huyện Vĩnh Lại. Đến năm 1890 được bổ sung thêm 3 tổng của huyện Vĩnh Lại và năm 1900 thì tổng Bắc Tạ tách ra thành hai tổng, cùng lúc đó thì làng Tranh Chử được cắt về Vĩnh Bảo. Như vậy tới đầu thế kỷ XX thì huyện Vĩnh Bảo gồm 12 tổng.

1-

Chơi với dân Quý Xuyên

Chẳng mất tiền thì cũng mất bạc

 

       (Làng Quý Xuyên Nội, tên Nôm là Lác, còn Quý Xuyên Ngoại, tên Nôm là Râu, chính âm là dâu, xưa thuộc tổng An Bồ, huyện Tứ Kỳ, từ năm 1838 trở đi thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời nay thuộc xã Giang Biên)

 

2-

Dân Nội Thắng

Thẳng như ruột ngựa

 

       (Làng Nội Thắng, xưa thuộc tổng An Bồ, huyện Tứ Kỳ, từ năm 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời nay thuộc xã Giang Biên. Câu này ý nói ranh giới làng này với hai làng kế bên là Lác và Râu thẳng đừ như ruột ngựa. Hay dân làng Thắng tính thẳng như ruột ngựa, hay ý cả hai) 

 

3-

Trăm cái tội không bằng lỗ lội làng

 

       (Tạ Xá xưa thuộc tổng Bắc Tạ, tên Nôm là Tè, sau là Trung Tạ và Nội Tạ, từ đầu thế kỷ XX là An Lãng, Tạ Ngoại và Nội Tạ, thời cách mạng thuộc xã An Hòa, từ 2025 thuộc xã Vĩnh Hòa. Đây là vùng đất trũng giáp sông Hóa hay bị lụt lội, khu vực giáp đê sông Hóa vào cuối thế kỷ XX vẫn chưa trồng lúa nước được)

 

4-

Muốn hút thuốc tuyệt đất phèn

Thì về tổng Thượng làm rèn cùng anh

 

       (Tổng Thượng Am gồm 6 làng là Thượng Am, Hậu Am, Liêm Khê, Trung Am, Tiền Am, Lãng Am, có nghề rèn)

 

5-

Người đẹp như tiên

Tắm nước Vạn Tuyền cũng xấu như ma

Người xấu như ma

Tắm nước làng Hà cũng đẹp như tiên

 

       (Làng Vạn Tuyền, xưa thuộc tổng Đông Am, đến thời Thiệu Trị đổi thành Vạn Hoạch, huyện Vĩnh Lại, từ 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời nay thuộc xã Cao Minh. Còn làng Hà Hương, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, từ 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo. Từ đầu thế kỷ XX đổi là Hà Phương thuộc tổng Oai Nỗ, thời nay thuộc xã Thắng Thủy)

 

6-

Chợ Gừng một tháng sáu phiên

Ai ơi nhớ lấy đừng quên chợ Gừng

 

       (Làng Xuân Cốc, tên Nôm là Gừng, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, từ 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời nay thuộc xã Hùng Tiến. Lúc đầu chợ họp ở bên hữu ngạn sông Gừng, sau chuyển về làng Mòi, thời nay chuyển về khu vực cầu Sặt)

 

7-

Ông Cõi mười ba

Thanh Hà mười bốn

 

       (Thần đồng nho sinh Dĩnh Đạt lấy tên chữ là Công Chính, người làng Hội Am, tên Nôm làng này là Cõi, xưa thuộc tổng Đông Am, huyện Vĩnh Lại đỗ Hương cống năm Khánh Đức thứ 3 (1651) lúc mới 13 tuổi, còn nho sinh Thanh Hà đỗ ở tuổi mười bốn)

 

8-

Đức thánh thuốc Nam

Hội Am - Vĩnh Lại

 

       (Bảng nhãn Đào Công Chính là một thi sỹ tài hoa, ngoài ra ông còn là một nhà ngoại giao tên tuổi, nhà sử học uyên bác, nhà y học lừng danh. Lúc về trí sỹ ông mở trường dạy học cũng như bốc thuốc chữa bệnh băng fthuoocs Nam, vì vậy thôn dân quanh vùng mới có câu ca như vậy)

 

9-

Tháng Ba Bảng Cõi về trời

Tháng Năm Chiêu Tổ cũng rời trần gian

 

       (Chính tìm được câu ca dao này, nên chúng tôi mới tìm được năm mất của Bảng nhãn Đào Công Chính trùng với Chiêu Tổ khang vương Trịnh Căn, tức năm 1709, còn trước đây đã từng diễn ra không biết bao nhiêu cuộc hội thảo)

 

10-

Hiệu Hồng Ninh thứ Hai năm ấy

Khoa Nhâm Thìn Tiến sỹ rành rành

Văn nhân tài từ đua tranh

Thứ ba ông Nguyễn Sư Khanh bảng đầu

 

       (Nho sinh Nguyễn Sư Khanh (1566 - ?), người làng Đông Quất, xưa thuộc tổng Can Trì, huyện Tứ Kỳ, thời nay thuộc xã Tam Đa, huyện Vĩnh Bảo đỗ Tiến sỹ Nho học vào niên hiệu Hồng Ninh thứ 2 (1592) đời Mạc. Sau ông quy thuận nhà Lê Trịnh và làm quan, trên đường đi sứ thì bị tai nạn mất. Ông là cháu nội của nhà khoa bảng Nguyễn Đình Tộ và cháu họ của Hoàng giáp Thượng thư Nguyễn Minh Đạt người cùng làng Đông Quất)

 

11-

Cổ An Miệt

Kim An Bồ

Kim cổ đồng thanh diệc như nhất

       Dịch nghĩa:

Xưa An Miệt

Nay An Bồ

Trước nay cùng nhau gọi như một

 

       (Làng An Bồ, xưa thuộc tổng An Bồ, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, từ 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo, phủ Ninh Giang, thời nay thuộc xã Dũng Tiến, huyện Vĩnh Bảo)

 

12-

Cò bợ lấy vợ Cự Lai

Cơm rặt thì ít, độn khoai thì nhiều

 

       (Làng Cự Lai, xưa thuộc tổng An Bồ, thời nay thuộc xã Dũng Tiến)

 

13-

Muốn ăn cơm trắng canh cần

Thì về Cảnh Nội đan giần với anh

 

       (Cảnh Nội là giáp chính của làng Từ Đường, vào thời Đồng Khánh đổi thành Từ Lâm, xưa thuộc tổng Kê Sơn, huyện Vĩnh Lại, thời cách mạng thuộc xã Đồng Minh, làng Từ Lâm có nghề đan lát khá nổi tiếng. Câu ca này của tổng Kê Sơn)

 

14-

Nội Tạ độc tộc

Bảo Lộc nhiều dứa

Lắm lúa Tây Tạ

 

       (Làng Nội Tạ, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, từ năm 1838 trở đi thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời cách mạng thuộc xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Từ thời Tây Sơn (1789) trở về trước cả làng chỉ có duy nhất dòng họ Nguyễn, sau này các chi có tên đệm như Xuân, Trọng... và đời sau lại lấy tên đệm ra thành họ. Làng Bảo Lộc, xưa thuộc tổng Chân Lại, huyện Tứ Kỳ, thời vua Dục Đức đổi thành tổng Tất Lại, huyện Tứ Kỳ. Thời cách mạng thuộc xã Tiên Động, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương. Còn vào năm 1485 vua Lê Thánh Tông lập 43 sở đồn điền, trong đó có sở Tây Tạ gồm Thượng Đồng thuộc tổng Bắc Tạ, thuộc huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng và từ cuối thế kỷ XVIII thêm Hạ Đồng nằm ở huyện Vĩnh Lại thuộc phủ Hạ Hồng, thời cách mạng thuộc xã An Hòa bên tả ngạn sông Hóa và Hạ Đồng thuộc xã Cộng Hiền cách Thượng đồng chừng vài cây số. Đây là câu ca trong huyện Tứ Kỳ)

 

15-

Hùng triều lưu hiển tích

Tây Tạ ngật sùng từ

       Dịch nghĩa:

Giữ giá trị văn hóa thời Hùng

Ở Tây Tạ có ngôi đền cao

 

       (Sở Tây Tạ, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, khu vực chính sau này là Thượng - Hạ Đồng thời nay bên tả ngạn sông Hóa, thời cách mạng thuộc xã An Hòa và Hạ Đồng, xưa thuộc tổng Bắc tạ, thời cách mạng thuộc xã Cộng Hiền. Theo Thần tích Thần sắc của làng và trang 409 “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” ghi: “Làng có 6 Thành hoàng gồm: Quốc Phi Phu Nhân; Nghiêm Thắng; Linh Phù Hiến Công Hầu, thường gọi là Hiến Công hầu, ngờ là Trần Công Hiến, tức Ân, đời Gia Long làm Trấn thủ Hải Dương tổ chức đắp đê ở vùng này, dân nhớ ơn gọi là đê Trần Công; Linh Ứng; Hoa Tươi Phu Nhân và Phạm Thiện Phu Nhân. Cả 6 vị đều không rõ tích, chỉ biết Phạm Thiện là nhân thần…”. Theo chúng tôi, thì tác giả ở từ điển hiểu sai, đây là mỹ từ “Phạm Thiện Phu Nhân”, mà nhà vua cho, nghĩa là “người phụ nữ quyền quý thiện lương, trong sạch”, chứ không thể có người nào là vợ ông Phạm Thiện cả. Thế rồi dân làng Thượng Đồng lại suy đoán là ông Phạm Thiện vì tại làng này phần lớn mang họ Phạm”.

 

16-

Tứ Kỳ - Vĩnh Lại:

- Bố cu Vĩnh, dắt cu Vĩnh đi chơi, cu Vĩnh không đi, cu Vĩnh nằng nặc đòi ở lại

- Mẹ cái Tứ, bắt cái Tứ về tắm, cái Tứ không tắm, cái Tứ khăng khăng chẳng muốn kỳ.

 

17-

Tạ Xá tam thôn đình cộng bái

Tráng, Tè nhị xứ thổ tòng nguyên

       Dịch nghĩa:

Xã Tạ Xá xưa có ba thôn cùng chung một đình thờ phụng

Hai làng Tráng và Tè có thủa cùng một gốc mà ra.

 

       (Tạ Xá, tức làng Tạ, tên Nôm là Tè, về sau gọi địa danh bằng hai từ mới có làng Tạ Xá, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ, vào cuối thời Mạc thì tách làm hai làng là Trung Tạ và Nội Tạ. Từ năm 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo. Rồi từ năm 1891 thì Trung Tạ tách làm hai làng là Tạ Ngoại và An Lãng, tên Nôm của An Lãng là Tráng. Thời cách mạng thuộc xã An Hòa, từ 2025 là xã Vĩnh Hòa. Trước năm 1937, 3 làng này có chung một đình gọi là đình Ba Xã được đặt ở khu đống Miễu giữa Nội Tạ và Tạ Ngoại, nay thuộc khu nghĩa trang dòng họ Nguyễn Xuân Nội Tạ)

 

18-

Muốn ăn cơm trắng cá rô

Thì về Nội Tạ thả lờ cùng anh

 

       (Giáp Nội Tạ thuộc Tạ Xá, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, thời cách mạng thuộc xã An Hòa, từ 2025 thuộc xã Vĩnh Hòa. Địa danh này thuộc vùng trũng nên có nhiều tôm cá và thôn dân nơi đây có nghề thả lờ rô và trê từ lâu đời)

 

19-

Làng Mòi khoai bở, nước chè

Làng Tráng, làng Chìa riu tép quanh năm

 

       (Ba làng này liền một trục, thôn Đại Nỗ, tên Nôm là Mòi, xưa thuộc làng Oai Nỗ, tổng Bắc Tạ, từ 1891 thuộc tổng Oai Nỗ, thời nay thuộc xã Hùng Tiến. Thôn An Lãng, xưa thuộc làng Trung Tạ, từ 1891 là làng An Lãng, tổng Bắc Tạ, thời nay thuộc xã An Hòa. Còn thôn Kinh Hữu, tên Nôm là Chìa, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, thời nay thuộc xã An Hòa. Ba làng trên từ 2025 thuộc xã Vĩnh Hòa, Hải Phòng)

 

 

20-

Ai về Vĩnh Bảo mà coi

Chợ Hu một tháng ba mươi phiên chiều

 

       (Chợ Hôm thường được gọi là chợ chiều, còn chợ Đêm thì họp vào tối. Làng Can Trì, thời Đồng Khánh đổi là Hu Trì, gọi tắt là Hu, xưa thuộc tổng Hu Trì, thời cách mạng thuộc xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Bảo)

 

21-

 

Làm trai quê đất An Trì

Không đi đánh giậm lấy gì nuôi con

 

       (Làng An Trì, xưa thuộc tổng Can Trì, huyện Tứ Kỳ, từ năm 1838 trở đi thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời cách mạng thuộc xã Thanh Lương, huyện Vĩnh Bảo, từ năm 2025 thuộc xã Vĩnh Hải, thành phố Hải Phòng)

 

22-

Cốc Thượng, Cốc Hạ, Cốc Tân

Trong ba cốc ấy biết cân cốc nào

 

       (Giáp Cốc Thượng, Cốc Hạ và Cốc Tân thuộc làng Bắc Tạ, xưa thuộc tổng Bắc Tạ. Sau này Cốc Thượng thành đơn vị hành chính cấp làng và mang tên Tường Vân, trước đây thuộc tổng Bắc Tạ, thời cách mạng thuộc xã Hùng Tiến. Còn Cốc Hạ và Cốc Tân vẫn ở làng Bắc Tạ, thời cách mạng Cốc Hạ là xóm Dom, còn Cốc Tân là xóm Đình thuộc thôn Bắc Tạ, xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo. Từ 2025 các làng trên thuộc xã Vĩnh Hòa, thành phố Hải Phòng)

 

23-

Ông già xã Oai

Không may bị mất

Làng Hóp trống dong

Làng Giông chiêng dạo

Làng Gạo nấu xôi

Làng Mòi vàng mã

Làng Nả mộ bia

Làng Bi văn tế

Sáu làng tuyên thệ

Đưa cụ ra đồng.

 

       (Chuyện về một cụ già họ Phạm ở xã (làng) Oai Nỗ, gọi tắt là Oai, xưa thuộc tổng Bắc Tạ không may qua đời đột ngột, gia cảnh neo đơn được dân làng giúp. Làng Trúc Hiệp, tên Nôm là Hóp, xưa thuộc tổng Bắc Tạ, là quê vợ ông, còn xã (làng) Oai Nỗ quê ông gồm 5 giáp sau: Giông, Gạo, Mòi, Bi và Nả. Thời cổ tổng Bắc Tạ thuộc huyện Tứ Kỳ, từ năm 1838 thuộc huyện Vĩnh Bảo, thời cách mạng các thôn trên thuộc xã Hiệp Hòa, riêng thôn Mòi thuộc xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, từ năm 2025 tất cả 6 thôn trên thuộc xã Vĩnh Hòa, thành phố Hải Phòng)

 

24-

Bánh đa thôn Buộm

Vải nhuộm thôn

Trống mõ thôn Dom

 

       (Làng Phương Đường, thời Đồng Khánh đổi là Phương Trì, có giáp Tây tên Nôm là Buộm, còn giáp Đông là Gũ, xưa thuộc tổng Bắc Tạ. Còn giáp Dom thuộc làng Bắc Tạ, xưa thuộc tổng Bắc Tạ. Ba thôn trên thời cách mạng thuộc xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, từ năm 2025 ba thôn trên thuộc xã Vĩnh Hòa, thành phố Hải Phòng)

 

25-

Cổ xưa nếp rạ xen nếp cói

Hồ ao trong gạch nối gạch nghiêng

Chợ làng tuần đủ bảy phiên

Nét quê thanh lịch nức miền gần xa

 

       (Làng Liễu Điện, xưa thuộc tổng Đông Am, huyện Vĩnh Lại, từ năm 1838 trở đi thuộc huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, thời cách mạng thuộc xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo)

 

(Còn nữa)

 

NGỌC TÔ (Sưu tầm)