/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

THƠ VĂN BẠN BÈ

NGƯỜI ĐI TỪ QUÊ BIỂN

Tôi cảm nhận từ cái nhìn, cái nghĩ của một người giàu trải nghiệm và tự thức.

NGƯỜI  ĐI  TỪ  QUÊ  BIỂN
Kim Chuông

                                 
               Sớm thu này với tôi, có lẽ, đấy là một kỷ niệm đẹp. Bởi, tôi là người mê đắm mùa thu. Ai đó bảo, mùa thu là mùa của thi sĩ. Khi cái nắng ong ong ngả dần màu nhạt, chút gío lạnh không hiểu từ đâu len lỏi lạc về. Một chút nhớ vừa gần gũi, vừa vời xa… Chút ranh giới mơ hồ của tâm trạng mong manh khẽ chạm vào là mất.

             Đang là người đi xa, nhớ về mùa thu đất mẹ. Cuộc gặp ông, người đồng hương Hải Phòng bên cửa biển Vũng Tàu đầy nắng, dẫu không gian ở đây không gợi về một chút thu nào, nhưng bao nhiêu liên tưởng được đánh thức làm tôi vui.Tôi chợt thấy mình như đang có một mùa thu riêng rẽ.  

           Vâng. Ông là Phạm Văn Kho. Nguyên Tổng Giám đốc công ty liên doanh khí hoá lỏng ViệtNam. Sớm ấy, trên gác hai của căn nhà bên đường Phạm Hồng Thái, thành phố Vũng Tàu, tôi ngồi trò chuyện cùng ông trong lần đầu gặp gỡ. Ở tuổi sáu lăm, nhìn ông chắc khoẻ, lên xuống cầu thang thoăn thoắt. Ông Kho nhanh ở cái nhìn, cái nghĩ, ở tư duy, ngôn luận. Tôi say ngắm ông, một con người giàu nghị lực, tự tin.    

              Bắt tay ông trong cuộc gặp dường như không hẹn trước, tôi thật vui, bởi trên đường “thiên lý”, nơi xa xôi bỗng dưng lại được gặp người Hải Phòng, đất Cảng. Là thế. Ngẫu nhiên mà tất nhiên với cái gọi là “cớ” kia cũng nằm trong dòng chảy, trong bến bờ này cả. Ông Kho là một trong những nhân vật không thể thiếu ở đội ngũ những người của ngành dầu khí nước nhà đang được đưa vào “văn bia” trong ý thức ghi nhận, đắp dầy nền cội nguồn truyền thống của một đơn vị, một ngành. Còn tôi, một nhà văn trên lộ trình đi và viết, thế thôi.

               Cái tình ở đời là vậy. Giữa nơi xa gặp người đồng hương sao cảm thấy dễ ấm áp, gần gụi.

                                             -*-

                Ông Kho, quê làng Phù Liễn, xã Thuỷ Sơn, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Đất Thuỷ Nguyên, quê ông, với tôi có khá nhiều tháng năm với không ít những kỷ niệm thật đẹp.

               Thuỷ Nguyên, là huyện biển. Nơi ấy có Núi Đèo, Phà Rừng, Bến Bính... Cửa sóng Bạch Đằng còn muôn thuở vang vọng “Đằng giang tự cổ huyết do hồng”…câu ca về  lịch sử thời nhà Trần đánh giặc. Cùng với Vĩnh Bảo, quê hương Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thuỷ Nguyên là một trong những huyện hàng đầu có nhiều nhà văn Việt Nam nhất của thành phố Hải Phòng. Thuỷ Nguyên còn là một miền gái đẹp. Nơi một thuở lùng tùng, dập dìu vui bao mùa lễ hội. Nơi những câu hò, điệu ví làm thổn thức con tim nhiều trai gái thôn làng.

                Quê hương. Cái “nước thánh” hồn nhiên, tươi trẻ, nơi yêu thương, tha thiết nhất của mỗi đời người. Vậy mà, vừa lọt lòng, chưa đầy hai tuổi, ông Kho đã sớm mất bố. Mẹ ông, nguời phụ nữ còn rất trẻ đã ở vậy, một đời thuỷ chung, tận tuỵ nuôi con. Nhà ba anh em trai. Cây lúa thuở xa không nuôi nổi  người trồng. Mặt đại dương, nơi ầm ào tiếng sóng, nơi có được niềm vui ở mẻ lưới xa khơi lại là công việc của những người đàn ông sức lực vạm vỡ, coi thường bão gió. Cảnh nhà neo bấn, thương mẹ, thương em, không còn cách nào khác, cậu bé Phạm Văn Kho phải ngày ngày một mình cuốc bộ lên tận Núi Đèo, chui vào những cánh rừng kiếm củi. Những bó củi đè nặng trên vai nhưng chỉ bán được vài ba đồng xu còm cõi. Cậu bé mang trong mình con tim và sức mạnh lớn gấp trăm lần cái dáng nhỏ gầy bên ngoài ấy lại tìm lối ra đi. Một chiếc rui tép giống như chiếc thuyền, khi đội trên đầu, khi khoác lên vai, ông Kho lại dầm mình suốt đêm trên những cánh đầm lầy đầy rong rêu, lăn lác. Khi trên đầm Sáu Phiên, Sáu Xã. Khi men theo bờ mương, bờ lạch. Lúc ngâm nước sâu tới tận ngực. Lúc cắn răng chịu rét thâm tím thịt da. Ban đêm thức với màn sương mịt mờ, với nỗi sợ “ma trơi” nơi miếu xa, gò đống. Ban ngày, bát tép riu kiếm được lại vội vàng mang ra chợ bán đổi lấy bát gạo, củ khoai. Đời sống nhọc nhằn với  cuộc kiếm kế mưu sinh đã tôi nặn lên cậu bé cứng cáp, giàu nghị lực, cùng người mẹ gánh vác một “giang san”, vượt từng bước đói nghèo. Sau này, nhiều lúc ông Kho nghĩ, đấy chính là cái “có” trong kỷ niệm đáng trân trọng ở một đời người. Ai nắm cầm được niềm vui, hạnh phúc trong gian lao, trong sự đánh đổi bằng mồ hôi công sức, của mình mới thấy hết cái thấm thía những gì ở giá trị có được. Ngày bé, ông Kho chưa hiểu hết những gì sâu xa của lẽ đời như vậy.  Ông chỉ biết, nhà nghèo. Mẹ vất vả nhưng ông phải được đến trường, phải được đi học để sau này có thể làm được việc gì đó để  kiếm tiền, kiếm sống.              
          Thế là, chẳng quản tuổi nhỏ, sức vóc yếu gầy. Chẳng quản ban đêm rui tép. Chẳng quản tháng ngày chui vào quán làm thuê các việc rửa bát, dọn mâm… Ông Kho thường tỉnh dậy từ khi gà gáy, cuốc bộ sáu bảy cây số qua phà bến Bính, hàng ngày cùng bè bạn chăm chỉ cắp sách tới trường. Ông còn đi ở cùng người anh, làm phụ bếp lấy tiền vừa đi học, vừa cùng mẹ nuôi em.

               Như cánh lá bị quăng quật giữa dòng xoáy lốc, ông Kho sớm cứng cáp, sớm vượt lên “tự cứu lấy mình”.  Ở trường, ông học giỏi, không thua kém bạn bè. Nhưng khó khăn ở gia cảnh, ở đồng tiền, bát gạo, năm 1960, khi học xong lớp Bảy (tốt nghiệp cấp Hai thời ấy), để cần kíp có được việc làm, có đồng lương sinh sống đỡ đần mẹ yếu, quê nghèo, ông Kho phải rời trường phổ thông, thi vào Trường trung cấp kỹ thuật, theo học khoa chế tạo máy tại thủ đô Hà Nội. Năm 1963, chàng thanh niên trẻ măng trong bộ áo công nhân đầy ước mơ, kiêu hãnh được trở về đất quê, làm việc tại nhà máy cơ khí Duyên Hải, thành phố Hải Phòng.

                 Trên đất nước, lúc này đang có phong trào thi đua “ Gió Đại Phong, sóng Duyên Hải và cờ Ba nhất”. Từ trường kỹ thuật về, Phạm Văn Kho lăn mình vào cuộc lao động sáng tạo. Ông nhanh chóng được lãnh đạo và đội ngũ những người công nhân khâm phục, tin yêu. Phạm Văn Kho được bầu vào Ban Thường vụ Đoàn Thanh niên nhà máy. Là chủ đề tài, là tác giả thiết kế và chế tạo máy tiện chuyên dùng. Công trình sáng tạo này đem lại niềm vui, niềm tự hào trước tháng năm tuổi trẻ của ông. Sinh năm 1943, tháng 7/1963 Phạm Văn Kho được kết nạp, trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản trong đội ngũ những đảng viên của đất nước. Chàng trai tuổi đôi mươi, cái tuổi tươi xanh, dạt dào mơ ước này đang biết mình vừa đi từ ngõ làng Phù Liễn đã bước vào con đường lớn phía trước. Cái lớn nằm trong cái nghĩ buổi ấy đâu phải là cái được của chức tước, của bổng lộc, lợi quyền. Đấy là niềm vinh dự  với sứ mệnh nặng hơn khoác lên vai người trai trẻ ở trách nhiệm, ở sự gương mẫu cống hiến sức mình, ở ý thức cá nhân trước một tập thể lớn.            

                 Những năm 1964 -  1966, nhất là khi giặc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, Hải Phòng là một trong những thành phố nằm trong mục tiêu bị bắn phá ác liệt. Nhà máy cơ khí Duyên Hải nằm trên đất Cảng luôn bất ngờ chìm trong tiếng còi báo động. Những trận bom rung chuyển, những cột khói mịt mù. Phạm Văn Kho xung phong cùng trung đội tự vệ trực chiến đánh giặc. Ụ súng 12 ly 7 của đơn vị ông đặt trên tầng ba nóc nhà cao nhất của nhà máy. Người đảng viên, người công nhân, người chiến sĩ tự vệ trẻ tuổi này đã đi qua nhiều trận thử lửa. Trong chiến tranh, mỗi con nguời được tôi rèn, lớn lên khá vững. Phạm Văn Kho trưởng thành từ  cuộc đối mặt, đọ sức như thế.

                   Năm 1966, từ chính sách đào tạo những công nhân tiêu biểu, có trình độ văn hoá, Là đảng viên trẻ, một công nhân kỹ thuật tiêu biểu, Phạm Văn Kho được nhà máy chọn đi du học tại đất nước Rumani, chuyên ngành chế tạo máy. Ông Kho hiểu, đây là phần thưởng cho sự phấn đấu không ngừng của ông những tháng năm tuổi trẻ trong học tập, rèn luyện và công tác.

                   Năm 1972, sau sáu năm đào tạo ở Rumani, Phạm Văn Kho được điều về Liên đoàn địa chất 36 Thái Bình. Được phân công là kỹ sư trưởng cơ điện, giếng khoan 102, trên đấtGiao Thuỷ,NamĐịnh, thuộc đoàn 36N. Đi qua sáu năm “kinh sử, đèn sách” ở đất nước bạn, kiến thức thu nhận giống như những mũi khoan đã gọi dậy giữa lòng ông những vỉa, những tầng của ánh sáng tri thức. Từ trang sách đến cuộc đời là hai chiều của sức chảy, của gương mặt dòng sông hiện về mặt đất. Hai mươi tám tuổi đầu, ông Kho đằm mình vào cuộc đời thực tại bằng kiến thức có được với sức trẻ đầy nhiệt huyết của mình.        

              Ở Giao Thuỷ, bên cạnh bờ đê Giao thuỷ, Giao An lồng lộng gió biển và nắng. Những ngày lao động miệt mài, gian khổ đã trở thành quen thuộc của ông, của những người thợ tìm dầu. Bên giàn khoan, dưới lán mái tôn, mái lá vừa dựng là nơi hội tụ của phút giao ban, gặp gỡ, phút tranh thủ uống một ngụm nước, ăn vội  bữa cơm trưa, phút cùng nhau chợp mắt lấy sức để tiếp tục bước vào “trận mới”. Là kỹ sư trưởng cơ điện, hàng tháng, hàng năm, Phạm Văn Kho cùng anh em chẳng khác gì bầy ong xây tổ. Ông cùng mọi nguời tham gia lắp ráp giàn khoan. Khi vận hành máy. Lúc bảo chì, sửa chữa. Đấy là những việc hàng ngày. Trên thực địa, nơi giàn khoan được dựng lên cho công cuộc tìm kiếm giọt dầu, biết bao việc không tên đã cuốn người thợ vào đấy với không ít mồ hôi công sức, cả hơi thở của tâm hồn, trí tuệ thật đằm sâu của họ. Họ đã dần quen với những bữa ăn bát cơm trộn nửa bột mì. Mấy năm trời ngủ trọ nhà dân trong cảnh “dã ngoại”, thiếu thốn đủ thứ. Nhưng, ngày mai! Ngày mai… Những dòng dầu từ các mỏ dầu sẽ trào lên mặt đất sức cháy của ngọn lửa diệu kỳ. Đấy là niềm vui, niềm khao khát của bao nhiêu người thợ dầu khí đã và đang đi từ sức rung, sức chấn động lớn nhất của lòng mình. Cũng giống như bao nhiêu đồng đội, ông Kho hăm hở lộ trình hướng về ngày mai trong âm hưởng cứ dào lên như thế.

                Đầu năm 1973, để phục vụ cho công trình khai thác được đặt ra, lần thứ hai, Phạm Văn Kho lại được cử đi Rumani đào tạo chuyên ngành cho giếng khoan sâu 5000 mét. Ba mươi tháng trời, người kỹ sư chế tạo máy Phạm Văn Kho thực sự va đập, thử sức mình giữa hiện trường trên trận tuyến mới nữa. Ở giàn khoan của đất nước bạn, ông Kho trực tiếp học tập, tham gia sửa chữa thiết bị khoan giếngPloiesti-  Teleajen - Boldesti. Tham gia sửa chữa cần ống giếng Tirgoviste. Sửa chữa Valve Baicoi. Sửa chữa máy nổ 250 -  800 CV  tại xưởng sửa chữa Cimpina .  Sửa chữa thiết bị Gas Ploiesti, rồi thực tập với các thiết bị mũi khoan sâu thông số của Rumani 7000mét tại Baicoi…   

                 Đầu năm 1975, từ Rumani trở về đoàn 36N, lưng vốn tri thức của những ngày được “tu nghiệp” thật quý giá. Kỹ sư Phạm Văn Kho lại lao vào    

những ngày lao động quên mình. Công việc của một ngành khoa học công nghệ đòi hỏi sự đào tìm sức hiểu, sức biết, với sức phát sáng tinh vi của trí tuệ. Bóng dáng con người trước giàn khoan đồ sộ, trước những “mỏ dầu bí ẩn” vẫn âm thầm, quyết liệt diễn ra trong vật lộn, tìm kiếm.   

                    Hai bước đi của mỗi con người. Một, phía khách thể, cái thế giới bên ngoài nằm ở mỗi giàn khoan cao vút. Phía nữa, là cái Tôi, đóng vai trò chủ thể. Đấy là điều cốt lõi của hành động, nghĩ suy. Là kỹ sư, “lính chiến” trên mặt trận tìm dầu, Phạm Văn Kho chỉ biết, cùng với công việc chuyên môn, với đoàn 36N, từ nay, ông phải gánh vác vai trò mới nữa là Bí thư chi bộ Đảng. Hai khoá liền đảm nhiệm công việc của tổ chức chính trị giao phó, điều ông Kho cảm nhận là sự hoà nhập, đan xuyên giữa việc và người. Là sự kỳ diệu của khả năng đánh thức được thế mạnh cùng lúc ở hai cánh bay, khi người lãnh đạo làm tốt yếu tố ấy.           

                                                      -*-

               Một biến động hay đấy là chặng đường chuyển tiếp của công việc mà mỗi  đời người đã hóa thành kỷ niệm khó quên. Cuối năm 1978, ông Kho về Đại diện Tổng cục dầu khí ở thành phố Hải Phòng, làm Trưởng Ban tiếp nhận các thiết bị dầu khí. Mười hai năm kể từ khi rời nhà máy cơ khí Duyên Hải đi học tập ở nước ngoài rồi trở về ngành địa chất dầu khí, ông Kho lại có dịp về sống và gắn bó với thành phố Cảng quê mình. Trên địa bàn khá rộng của các giàn khoan đang hoạt động, công việc của ông là tiếp nhận các thiết bị dầu khí từ các nước chuyển về Cảng Hải Phòng. Từ Hải Phòng, hàng hoá lại được chuyển về các kho Đông Hưng, Trà lý - Thái Bình; Núi Già, Nam Định hay kho 36B -  Hưng Yên. 

                 Hai năm rưỡi trời, nhìn vào trang sổ dài dặc và dầy dịt cột mục những mặt hàng, những chuyến xe, bập bềnh, chao đảo lăn trên các tuyến đường toả về kho nằm rải rác ở Hưng Yên,Thái Bình,NamĐịnh… Hàng nghìn, hàng vạn tấn xi măng nóng. Hàng bãi ngổn ngang những đai kiện chờ  bốc vác, giải toả. Rồi, đây những mũi khoan kim cương đắt tiền. Đây những tàu 300 đến 400 tấn thuốc nổ, chất phóng xạ…Bao quanh là những bọc chì hình thoi nặng tới vài ba tấn. Đây những miếng bạch kim còn quý hơn vàng. Đây chất phóng xạ, hoá chất v.v… Bao nhiêu thiết bị cần cho một giàn khoan từ chân đế, cần khoan, ống chống, tháp khoan, bơm bùn, tời khoan 30 – 40 tấn chiếc…Hàng ngàn tấn cho mỗi giàn khoan từ ốc vít nhỏ nhất đến cả lán trại. Những gì trang bị cho mỗi người thợ tìm dầu của Tổng cục dầu khí đổ về Cảng Hải Phòng, nguồn thiết bị được cung cấp này, ông Kho, một trưởng ban chịu trách nhiệm lớn ở một mảng công việc không kém phần quan trọng, ông đã cùng hơn một chục đồng đội của mình, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, không để xảy ra dù một tổn thất nhỏ..

                  Dọc tuyến đường quốc lộ 10 từ Hải Phòng đi Thái Bình, Nam Định, hay từ Hải Phòng qua đường 10, qua đường 39, qua phà Triều Dương về đất Hưng Yên. Ngày ấy, tuyến đường này đã hẹp lại hư hỏng nặng. Đường gập ghềnh. Bụi bay mù mịt. Những bậc thang, ổ gà, sống trâu, những thùng vũng quanh năm đọng nước. Những “chuyến xe bão táp” gào rú bò đi

mang trên mình những kiện hàng kềnh càng, lắc lư, khó nhọc. Những chuyến sà lan thuốc nổ từ Hạ Long vào Cảng. Những sà lan mang thiết bị cần ống theo sông về Trà Lý, Xuân Thuỷ, lên Phù Cừ, về Nam Định, Thái Bình… Vào “chiến dịch”, hàng tháng trời không kể đêm ngày, những chuyến xe cứ nối nhau đi trong mưa, trong nắng. Những tay lái, những cán bộ làm công việc giao nhận, áp tải hàng quên ăn, quên ngủ, người xọp đi trông thấy.

                Ông Kho nhớ. Trên con phà Tiên Cựu, Quý Cao nằm cách nhau gần bốn cây số hay những khi qua phà Tân Đệ sang đấtNamĐịnh, dọc tuyến quốc lộ 10… Hai năm rưỡi trời với bao lần không thể đếm, ông Kho cùng anh em đồng đội đã vất vả hàng ngày, hàng tuần, có khi phải qua cả đêm dài thật ê chề mệt mỏi mới qua được con sông nhỏ hẹp. Cái khó thuộc về ông. Những chuyến hàng to dài quá cỡ, những mặt hàng đặc biệt, cần phải có riêng một con phà chỉ phục vụ cho nó. Thế là bị động. Thếl là chỉ có thể trông đợi vào người khác. Là chờ. Là không biết phút nào mới thở phào bước lên xe, “chào thân ái con sông, chuyến phà với những kỷ niệm “xanh rờn” của chuyến đi “lịch sử”.

                   Rồi, những “cú” khác nữa. Chẳng vụ việc nào giống vụ việc nào. Có lần, những mặt hàng phóng xạ dễ độc hại, gây nhiễm. Hàng về bến. Chưa thể đưa về kho ở mãi tít tỉnh xa để bảo quản, song kéo dài thời gian trên bến lại không thể. Những “pha” như thế, để tôn trọng nghiêm chỉnh luật pháp về chất nguy hại, ông Kho cùng anh em đơn vị  phải chạy như cờ lông công, làm sao kiếm được chỗ cất giữ tạm thời, tránh việc làm quẩn quanh, có thể gây nguy hại cho môi trường đời sống con người hoặc  đổ đi nhiều công sức vô ích.

                   Trong việc tiếp nhận, bàn giao các thiết bị phục vụ cho công trình tìm kiếm và khai thác dầu khí của đất nước, ông Kho còn đảm nhiệm tuyến vận chuyển đường biển từ Hải Phòng vào Cảng lớn Sài Gòn. Trên các giàn khoan Cà Cối, Phụng Hiệp, Định An, Cần Thơ hay trên mỗi mũi khoan đang ngày đêm âm thầm vượt qua những địa tầng ở một vùng châu thổ phía Bắc, ông Kho biết, nơi ấy có bóng hình của ông và những anh em đồng đội nhiều tháng năm từng chung sức chung lòng, họ đã góp vào đấy những giọt mồ hôi, những mảnh tâm hồn, trí tuệ nồng say nhất của đời mình. Có thể soi trong giọt dầu suốt dặm đường dài tìm kiếm, ở đấy là màu xanh của mái đầu “mãi mãi tuổi hai mươi” với sợi tóc pha sương chợt phút nào nhìn lại của đời ông, của bạn bè đồng nghiệp... Một niềm vui, nỗi buồn, nỗi trở trăn, khao khát… Hai phía của cái nhìn, hay từ nhiều chiều soi rọi và hội tụ, hiện thực đời sống và ông, đấy là sự thống nhất của “cái có” trước “chân trời dầu khí” đã và đang mở ra trên đất nước mai ngày. Ông Kho vui vì hàng vạn tấn hàng, hàng trăm triệu Rúp, hàng chục triệu đô la Mỹ, hàng tỷ tỷ đồng bàn giao chuyển nhượng không xảy ra mất mát. Sự an toàn, đầy đủ và chính xác ấy là phẩm chất, niềm tin ông đã thắp cho mình. 

                                                         -*-

                Tháng Mười năm 1980. Tháng Mười năm 1990.

                 Một thập kỷ nữa của chặng đường mà ông Kho nghĩ, đấy là sự cộm lên của bao nhiêu vang động.

                 Vâng. Cũng đúng vào cái ngày đã qua tiết lập thu.

                 Mà dường như, mùa thu !... Cái mùa người nghệ sĩ dễ run rẩy, da diết lắm thì phải. Chả là, nhà văn đã nói khá nhiều cái cảm lung linh, sóng sánh về mùa thu với thiên địa, với lòng người trong mối liên hệ ở buổi gặp gỡ của chúng ta hôm nay đó sao ? Vâng. Mùa thu. Tháng Mười năm Canh Thân, 1980 năm ấy, Phạm Văn Kho, chàng thanh niên mới ba mươi bảy tuổi. Qua “Tam thập nhi lập” , sắp tới ngưỡng “tứ thập bất hoặc”, cái tuổi đang dạt dào sức trẻ lại có sự chín, sự trải nghiệm ở dọc đường va đập từ thực tại của cái nghề, cái nghiệp “tìm dầu”, ông Kho rời quê hương, rời miền Bắc với nửa đời gắn bó, kéo “đại gia đình” vào miền Nam tiếp tục cống hiến cho ngành dầu khí, cho sự nghiệp tâm huyết đã chọn.    

                  Mười năm, từ trưởng phòng vật tư thiết bị rồi Phó trưỏng ban, trưởng ban một Ban quản lý công trình trọng điểm cấp nhà nước vừa làm nhiệm vụ quản lý vốn Nhà nước, vừa làm chức năng tổng thầu của Việt Nam để góp vốn vào Viesovpetro... Công việc của ông là quản lý vốn nhà nước, tổng thầu các công trình, hợp đồng kinh tế xây lắp, tổ chức thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán các công trình xây dựng, tổ chức bàn giao cho Vietsovpetro…   

                  Công việc ông đã toan lo cùng nhiều người trong ban lãnh đạo ở các đầu mối suốt mười năm dài được xướng lên, rút gọn ở vài từ cô đọng là vậy. Nhưng từ việc nhận thầu, nhận thiết kế, bản vẽ, việc triển khai, giám sát xây dựng. Việc tổ chức con người. Những việc thuộc về khoa học công nghệ, những trang thiết bị cung cấp phục vụ cho các hạng mục công trình. Việc phối hợp với Tổng công ty dầu khí ViệtNam, Bộ thương mại, Bộ công nghiệp, Bộ tài chính, kế hoạch vật tư… Việc phối kết hợp giữa các bên, việc xây dựng đơn giá, tính toán lỗ lãi, thu nhập cho người lao động. Việc bảo đảm hoàn thành công trình, bàn giao đúng thời hạn phục vụ cho guồng máy hoạt động khoa học, chính xác và hiệu quả… Mười năm, có lúc chợt ngoảnh nhìn, ông Kho bỗng gặp những hình ảnh cứ tấp lên. Việc và người chẳng khác gì chiếc đèn kéo quân cứ nối mãi dòng trôi. Mười năm, các công trình cho Liên doanh dầu khí Vietsovpetro gồm 38 hạng mục công trình lớn nhỏ.Từ Cảng, nhà ở, kho tàng, bến bãi, đường ống dẫn dầu, căn cứ địa vật lý, căn cứ cơ khí cho Vietsovpetro… Các công trình xây dựng cho Tổng Công ty dầu khí như:

                 - Kho xăng dầu Vũng Tàu.

                 - Khu Trụ sở. 

                 - Khu nhà ở.

                 - Công trình xây dựng mỏ đá Núi Ngang cho Xí nghiệp liên hiệp          xây lắp.

                 - Các công trình xây dựng trường .

                 - Viện điều dưỡng Bãi Dâu.

                 - Khoa lặn của trường đào tạo nhân lực dầu khí Bà Rịa.

                 - Công trình Trung tâm nghiên cứu và phát triển chế biến dầu khí. (Từ trụ sở làm việc đến nhà ở của cán bộ công nhân viên).

                 - Xây dựng các hạng mục công trình:

                                     * Tổng kho vật tư.

                                     *  Khu luận chứng kinh tế kỹ thuật.

                                     *  Công trình đường ống dẫn khí.

                 - Công trình xây dựng khu nhà ở cho công ty khí đốt ở Chí Linh.

                 - Công trình xây dựng Tổng Công ty dầu khí ViệtNam.

                 - Những công trình có nhiều đơn vị sử dụng như:

                                      *  Viện dầu khí Giếng Úc.

                 - Các công trình xây dựng phục vụ cho Bà Rịa -  Vũng Tàu như:

                                      *  Đường 15B, dài 4,2 ki lô mét.

                                      *  Công trình xây dựng trường phổ thông trung học Vũng Tàu và phổ thông cơ sở Lê Lợi .v.v…

                 Mười năm, quản lý hàng chục tỷ đồng, hàng chục triệu đô la Mỹ cho các công trình làm nên những gương mặt, dáng vẻ mới hiện về mặt đất để rồi góp hàng trăm triệu đô la Mỹ vào vốn pháp định của Việt Nam vào Vietsovpetro. Những không gian đồ sộ những góc cạnh, dáng hình kéo theo nhiều đổi thay của cuộc đời, mảnh đất. Những công trình có thể ví như từng quân cờ trong bàn cờ rộng lớn đang bày đặt những bước tiến mà Tổng Công ty dầu khí quốc gia ViệtNamlà người điều hành, chỉ huy thế trận. Người lãnh đạo, người “lính trận mạc”, người tổ chức thực hiện thắng lợi từng phần, đến thắng lợi toàn vẹn nhiệm vụ được giao là ông Kho với hàng trăm kỹ sư, cán bộ kỹ thuật và những người lao động trong guồng máy vận hành không thể tách rời. Bằng sức mạnh của nhiều phía đóng góp, họ đã biến những ước mơ từ đồ án còn nằm trên trang giấy trở về cuộc đời thực tại những gương mặt, những khoảng trời làm đẹp giàu thêm quê hương, đất nước. Nhiều lúc, ông Kho tự soi mình và suy ngẫm. Có thể, có lúc với mình, trí tuệ, sức hiểu còn chưa tới.  Có thể còn những phần việc chưa sát thực. Có thể, những kinh nghiệm ở những công trình đã qua không thể tránh khỏi những bỡ ngỡ, lúng túng khi bắt tay vào một công trình mới mẻ khác. Có thể còn để xảy ra lãng phí ở công kia, việc nọ. Song, ông và đồng đội ông, suốt những tháng năm dài đã tránh được những tiêu cực, những vị kỷ, thông đồng, hay tham ô, thiếu ý thức trách nhiệm.

                 Giữa biển đời lớn rộng, mỗi con người, mỗi cá thể nhỏ bé dù ở vị

 thế lãnh đạo hay là người chỉ thực thi một phần việc cụ thể nào đó, tất cả đều hoá thành những mắt xích đan dệt vào nhau trong cỗ máy khổng lồ. Điều quan trọng là, ở mỗi vị thế của mình, anh có thực sự trở thành hữu ích trong ý nghĩa của cái đẹp, cái chung rộng lớn hay không.

                  Năm tháng, đời người sẽ mờ đi trong dòng trôi vô cùng, vô tận.

Cả chặng đường từ buổi gắn mình với mảnh đất phươngNamlàm công việc quản lý, xây lắp và góp vốn các công trình dầu khí. Những sự kiện và con số sẽ còn lại và in sâu vào mảnh đất khoảng trời. Cái hằn mãi vào cõi lòng thăm thẳm, nó sẽ hoá thành giọt trong xanh nơi góc lòng người lộ trình là kỷ niệm.

                   Ông Kho không thể quên những ngày đầu Tổng Cục dầu khí thành lập Ban quản lý công trình dầu khí Vũng Tàu. Công việc “mở màn” của các ông là giải phóng mặt bằng. Là cùng Binh đoàn 318, “Binh đoàn dầu khí” với hàng ngàn, hàng hai ngàn người lính từ quân đội vừa được điều về. Là một vùng đất biển Vũng Tàu ngổn ngang sú vẹt với bom mìn còn rải rác vương lại sau chiến tranh. Thế rồi công việc “hậu cần” cho giàn khoan cũng được triển khai tốt sau bao nhiêu sự vụ của những ngày “vạn sự khởi đầu nan”. Rồi, chiến công của sự kiện đầu tiên khi đơn vị xây lắp thành công các chân đế giàn khoan, khẳng định vị thế mới, có ý nghĩa lớn ở chặng đường lao động sáng tạo. Rồi, từ giàn 1 đến giàn 5 ở Bạch Hổ, Mỏ Rồng, các bloc chân đế lần lượt ra biển, trọng lượng từ 1300 tấn trở lên…Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc vùng lãnh hải và đặc quyền kinh tế có phần đóng góp của cán bộ công nhân viên Ban quản lý công trình trên các giàn DK mang lại ý nghĩa không nhỏ trong sự nghiệp khởi đầu. Cũng từ đó, đơn vị xây lắp vượt qua thời non trẻ, đủ mạnh để nhận và hoàn thành những công việc mà trước đó luôn bị động, luôn phải dựa vào chuyên gia nước bạn.             

                 Rồi, chợt lúc nào nhìn lại, ông Kho cùng tập thể lãnh đạo của công ty mình không khỏi giật mình, vui, vì trên diện tích chiếm khoảng một phần ba thành phố Vũng Tàu đã có 62 công trình ghi nhận mồ hôi công sức của các ông  góp vào chân dung ngành dầu khí Việt Nam ở góc nhìn như thế.              

                  Có lẽ, ở nỗi nhớ trong  ám ảnh khó quên, tới tận bây giờ, nhiều lúc ông Kho còn như gặp giữa hồn mình niềm vui, nỗi khát khao ngắm trông  công trình mới đang từng giờ, từng phút hiện hình. Những lần, cái khó vừa được ông cùng tập thể có gỉải pháp tháo gỡ. Những lần, ông Adamians , một chuyên gia đại diện từ Liên Xô thường tìm gặp ông Hạp, ông Kho khi vừa có một thiết kế mới. Khi cần cụ thể lịch trình triển khai một công trình xây lắp sớm hơn. Những bài học qua đối thoại, qua hợp tác, hợp đồng liên doanh giữa các đối tác, đấy là những “trang đời” thật quý, nó tích tụ trong ông rất nhiều ánh sáng.

                   Một công trình thế kỷ mà ông Kho còn nhớ. Đấy là, việc đầu tư xây lắp đường ống dẫn khí trên biển từ mỏ Bạch Hổ về Thủ Đức. Vốn là bên A. Với 140 con người trong đội ngũ phục vụ khoa học kỹ thuật và lao động đã được chuẩn bị. Nhưng, phần kỹ thuật ? Trước công việc mới mẻ. Trước công trình đầu tiên chưa từng trải nghiệm. Ông Kho đã cùng tập thể lãnh đạo công ty khí lựa chọn nhà thầu Cannada  thiết kế cơ sở và tổng khai toán cho một dự án có tầm cỡ quốc gia . Thành công đường ống dẫn khí Bạch Hổ, Thủ Đức nhìn lại, qua trải nghiệm được xem, đấy là sự chọn lựa đúng hướng.     

                     Từ tháng 8 năm 1994 đến hết năm 2004, lại mười năm tiếp nối sau ấy. Lại một thập kỷ của chặng đường mới nữa, ông Kho đảm nhiệm hai khoá vai trò Phó Tổng giám đốc, rồi hai khoá liền Tổng Giám đốc, Tổng Công ty liên doanh khí hoá lỏng Việt Nam. Là thành viên của “gia đình lớn” Tổng công ty dầu khí quốc gia ViệtNam, ông Kho vẫn say mê tâm huyết với nhiệm vụ kinh doanh khí hoá lỏng. Từ việc liên kết với ba đối tác (Petrovietnam, Uỷ ban dầu khí Thái lan và Total), gồm bốn dân tộc ViệtNam, Thái Lan, Anh, Pháp. Từ việc xây dựng cơ sở vật chất. Việc mua

Gas từ các nước Thái Lan, Malayxia, các nước trung cận đông. Việc mở kênh bán hàng từ Quảng Bình, mảnh đất miền Trung tới các tỉnh phía Nam, mở màn cho một kiểu kinh doanh theo cơ chế thị trường của ngành dầu khí về lĩnh vực bán lẻ. Việc bảo toàn vốn cố định và hàng năm làm lãi hàng triệu USD. Việc duy trì qua mười một năm dựng xây và phát triển, đưa vốn của công ty từ năm triệu Đô lên mười một triệu Đô. Việc đứng mũi chịu sào chèo lái “con thuyền” vượt qua thác ghềnh về bờ xa, bến rộng…

                   Việc và việc. Đấy là cái bên ngoài, nó thuộc về tầng nổi. Nhưng, ở đời, có một tầng chìm sâu, nó là lõi, mang sức sống lâu bền. Đấy là ý nghĩa của mỗi việc làm, ý nghĩa của mỗi con người ở cái Tâm, cái Tài, cái Đức trước mối quan hệ rộng lớn. Nó vượt lên những gì nhỏ hẹp, vụn vặt, tư riêng. Nó “còn lại” khi người ta chỉ còn phút thanh thản ngắm nhìn đất trời phía trước.             

                    Bây giờ ông Kho đã đi qua những năm tháng sôi động nhất của đời mình. Cuối năm 2004, ông vui mừng được nghỉ theo chế độ hưu trí. Giữa mùa thu, buổi tôi gặp ông trong căn nhà trên gác hai của thành phố Vũng Tàu. Ông Kho từ Sài Gòn vừa đáp ôtô về nhà riêng theo lời hẹn.

                    “Ôi, người đồng hương Hải Phòng. Người của đất Thuỷ Nguyên, quê biển”. Người ở tuổi sáu lăm vẫn dồi dào sức sống. Ông Kho vẫn tham gia hoạt động trong công ty cổ phần Gas Sài Gòn. Ông thật nhanh và hồ hởi. Nhìn ông vui. Nhìn nụ cười trên gương mặt đầy sáng, tôi chợt gặp hình bóng ông Kho trên đất làng Phù Liễn buổi xa lắc thuở nào. Ông Kho. Một chú bé sớm mồ côi cha với những ngày lặn lội dọc Núi Đèo kiếm củi. Những ngày rui tép. Những ngày vừa làm thuê vừa đi học. Rồi, trên ba mươi năm lăn lộn cùng đội ngũ những người thợ tìm dầu… Từ Thuỷ Nguyên quê biển, ông về với Vũng Tàu, đất biển.

                      Trong đội ngũ điệp trùng của người “thợ tìm dầu”, năm tháng kế tiếp nhau đi về phía chân trời mơ ước, ông Kho nhập vào “biển  lớn”. Ông đã tới bến bờ và thực sự yên lòng, vui với những gì trong cái “có” thật  bình dị.

                      Tôi cảm nhận từ cái nhìn, cái nghĩ của một người giàu trải nghiệm và tự thức. Tôi nắm chặt tay ông Kho, chúc mừng người đồng hương quê tôi. Ông đã ra đi “ Từ mùa xuân một người tới mùa xuân của quê hương, đất nước”.

 

                                                     Sài Gòn- Hải Phòng,cuối thu 2008

                                                                                               K.C