/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

THƠ VĂN BẠN BÈ

Hoa mận trắng (Truyện ngắn)

Người đàn bà còn đang ngỡ ngàng chưa kịp từ chối, hay cám ơn thì lão đã vụt đi còn nhanh hơn cả con sóc trong rừng.

Hoa mận trắng

Truyện ngắn của Nguyễn Cẩm Hương 


     Lão Sình có ba con, con trai cả đã lập nghiệp ở xa, con gái út thì đi lấy chồng ở thành phố. Chỉ có thằng hai ở lại quê nhà nối nghiệp bố làm nương, nuôi ong, trồng rừng. Nhưng hai bố con chẳng bao giờ trò chuyện với nhau, kể cả lúc trên nương hay trong bữa cơm...

Thường thì bữa sáng và bữa chiều nhà lão Sình lúc nào cũng đầy đủ, chỉ có bữa trưa là tùy nghi di tản, người đi làm về lúc nào ăn lúc ấy, người ở nhà đến bữa cứ việc ăn. Lão Sình có ba con, con trai cả đã lập nghiệp ở xa, con gái út thì đi lấy chồng ở thành phố. Chỉ có thằng hai ở lại quê nhà nối nghiệp bố làm nương, nuôi ong, trồng rừng. Nhưng hai bố con chẳng bao giờ trò chuyện với nhau, kể cả lúc trên nương hay trong bữa cơm. Cái chính là do lão Sình rất ít khi mở miệng, ai hỏi gì lão cũng chỉ ậm ừ cho qua; chuyện  hài hước đến đâu khiến ai nấy phải cười nghiêng ngả thì lão cũng chỉ mủm mỉm rồi quay đi, như thể khung trời vui vẻ không thuộc về lão. Thế mà trong bữa cơm hôm nay, tự dưng lão lại khơi mào cái chuyện lễ hội.

      Chả là truyền hình của tỉnh đang đưa tin về việc chuẩn bị cho lễ hội đón tết Độc lập sắp tới. Nghe nói năm nay sẽ tập trung cả mấy huyện miền núi phía Bắc về tụ hội ở thị trấn huyện nhà. Ừ thì cũng vui thật, nhưng với lão Sình thì có liên quan gì vì hầu như cả đời lão đâu có quan tâm đến hội với chả hè. Ngay cả đến cái tết cổ truyền của người Mông lão cũng còn hờ hững nữa là. Lão cứ nói bâng quơ một hồi rồi bỗng dưng hỏi một câu rất lạ: "Lễ hội tết Độc lập có chợ tình không?". Lão hỏi xong chả thèm để ý xem ai nghe, ai trả lời. Vì ai cũng hiểu lễ hội năm nào mà chả có chợ tình. Thế nhưng vợ lão đang nhai miếng cơm bỗng dưng ngậm lại, thằng con trai đang gắp miếng thịt lợn đánh rơi giữa mâm, đứa con dâu đang chan môi canh vào bát cũng trật tay đổ ra ngoài. Không ai dám căn vặn lão hỏi thế để làm gì.

Ai cũng hiểu, chợ tình là nơi cho trai gái làm quen, tìm hiểu nhau rồi bắt nhau, ngoài ra còn là nơi cho những cố nhân có dịp gặp lại nhau. Chỉ có bà là chẳng cần hiểu, vì bà thừa hiểu ông có được bà như món quà trời cho rồi.

      Khi đó ông là một thương binh nặng với thân hình nát tươm và bộ mặt chẳng ra mặt người. Các y tá chiến trường tìm thấy ông trong ngổn ngang xác chết giữa nơi giao tranh của hai làn đạn. Cứ tưởng ông đã hy sinh, nhưng khi đưa về hậu cứ mới phát hiện trên cái đầu đầm đìa máu, có cái gì mấp máy cử động. Nhìn kỹ thì té ra là khuôn miệng ông đang phì phò thở. Lập tức ông được chuyển đi cấp cứu ngay, trong căn hầm của bệnh viện dã chiến. Ông được cứu sống, chỉ tội cái mặt thì không cứu được. Hồi đó giá như có bàn tay của bác sĩ thẩm mỹ thì chắc mặt ông cũng không đến nỗi. Khi đã hoàn toàn bình phục, một lần đi ra bể nước để tắm giặt, vô tình ngó vào trong bể, A Sình bàng hoàng không nhận ra mặt mình nữa vì nó đã bị biến dạng, ngoài những vết sẹo chằng chịt là sự méo mó chắp vá của tất cả các bộ phận trên khuôn mặt.

     Những ngày sau, A Sình chỉ quay mặt vào tường, hỏi không nói, gọi không thưa, cơm cũng không chịu ăn. Tối đến mới dám rời khỏi giường để làm những công việc cần thiết cho bản thân. Đã có lúc A Sình giấu cô y tá, xin thuốc ngủ rồi không chịu uống mà tích cóp lại để chờ làm một liều cho xong nhưng bị cô phát hiện và mắng cho một trận te tát khiến A Sình bừng tỉnh hẳn. Thế rồi cô y tá vùng đồng chiêm trũng lại đồng ý theo anh chàng dân tộc Mông với cái mặt như quỷ sứ về tận vùng thâm sơn cùng cốc này để lập nghiệp.

A Sình trước khi rời bản đi bộ đội là một chàng trai đẹp đẽ cường tráng như cây lim xanh trong rừng. Mắt sáng như mắt hổ, da bóng như mật ong, bắp tay bắp chân cuồn cuộn như dây leo trong rừng. Con gái trong bản nhìn theo A Sình vác dao đi làm rẫy đến quên cả bước chân. Những đêm hội xuân, tiếng sáo của A Sình làm nức nở bao trái tim thiếu nữ. Thế nhưng A Sình vẫn chẳng dám kéo tay ai vào rừng, vì sợ bị phạt trâu bò bạc nén, bởi A Sình là con một tên Việt gian bán nước. A Sình đẹp thế, múa khèn dẻo thế, thổi sáo hay thế, nhưng chỉ để mà ngắm thôi chứ không ai dám kết thân, huống hồ là chung chăn chung gối.

     Mùa đông năm ấy kéo dài, đã sang xuân rồi mà vẫn còn rét cay rét nghiệt, suốt ngày sương giăng trắng mù các đỉnh núi. Thế nhưng rét thì rét mà hoa mận vẫn cứ nở trắng rừng, trắng đến nỗi đi trên đỉnh đèo không rõ được đâu là mây, đâu là hoa mơ hoa mận. Mơ mận không phải do dân bản trồng, đó là thứ cây rừng, quả chua loét chỉ được cái hoa nở đẹp đến nao lòng. A Sình thức dậy từ lúc con gà còn chưa kịp gáy, lội qua ba con suối, leo hai ngọn đèo mới tới được phiên chợ dưới thị trấn. Cứ tuần trăng A Sình lại xuống chợ một lần, đem theo hũ mật ong mà Sình đã phải vắt kiệt sức cả tháng trời  lặn lội trong rừng sâu mới có được.

Minh họa: Lê Trí Dũng.

     Cái nghề săn mật ong này thật gian nan vất vả. Mùa mưa ong không đi lấy mật được, rét quá, hoa không nở, ong cũng lười đi tìm nhụy, thế là nhìn thấy tổ ong mà không dám lấy mật vì sợ ong không có mật để chống rét, nó sẽ chết hết. Dù A Sình là một tay săn mật ong nổi tiếng trong vùng nhưng A Sình cũng hiểu lời mẹ dặn: "Ăn của rừng rưng rưng nước mắt", nên không bao giờ A Sình cạn tàu ráo máng với ong.

Ngoài việc giỏi leo trèo, A Sình còn có biệt tài dụ ong ra khỏi tổ mà không cần phải đốt bùi nhùi làm cho ong sợ hãi. A Sình còn biết cách tạo dựng những tổ mới cho ong khi bị mất tổ, để lần sau còn có cái mà thu hoạch. Mật ong của A Sình được những người buôn dưới xuôi rất ưa chuộng vì đó là thứ mật không bị pha tạp bằng mật mía như của một số người đem bán dưới chợ. Chỉ có người sành về mật ong mới hiểu được giá trị những hũ mật mà A Sình đem bán. Nó đã phải đánh đổi bằng cả sự rủi may của tính mạng.

A Sình rảo bước với một niềm vui dào dạt, vì chắc chắn dưới chợ đã có nhiều người chờ anh để tranh nhau mua, anh sẽ bán được giá. Anh sẽ mua về cho mẹ một chiếc áo bông thật dày để chống cái rét cắt da, cắt thịt năm nay. Anh sẽ mua cho mình một chiếc khèn thật tốt để hội xuân năm sau, anh sẽ trổ tài, biết đâu sẽ có một cô gái nào đó quên cái vết nhơ của gia đình anh mà theo anh về nhà. Rồi anh sẽ mua nhiều thứ nữa, anh bỗng nghĩ đến một cái gương con xinh xinh, mà nhiều khi đi qua các hàng xén anh đã muốn mua để tặng một người con gái nào đó.

     Đặt cái gùi xuống một góc trong chợ, A Sình điềm tĩnh mở gói mèn mén mà mẹ đã gói sẵn cho đem theo ăn đường. Anh đang lúi húi bóc lớp lá định tợp một miếng thì giật mình bởi một giọng nói trong như nước suối:

- Anh có phải là A Sình bán mật ong không?

Ngước lên, A Sình bắt gặp một cô bé mặc chiếc áo bông hoa, quần đen như kiểu người dưới xuôi đứng ngay trước mặt: "Sao biết tên tôi?".

- A, đúng anh rồi, bố em dặn chỉ được mua mật ong của anh thôi. Em đã đi mấy phiên chợ rồi, mà không gặp anh. Lần nào cũng chậm chân hơn người khác. Lần này em phải ra chợ từ lúc sương còn chưa tan đấy. Người ta tả anh đúng quá, vừa thấy anh là em nhận ra ngay.

- Cô muốn mua mật ong của tôi?

- Vâng, bố em bị bệnh. Thầy thuốc dặn, thuốc phải ngào với mật ong rừng mới tốt. Nghe đồn chỉ có mật của anh là tốt nhất thôi.

- Nhưng mật của tôi đắt lắm, cô có tiền mua không?.

Vừa lúc ấy bỗng có mấy người chạy lại nhao nhao trả giá. A Sình đang luống cuống thì lão Vận đã sán tới, đe: "Mật ong này là của tao đã đặt mua từ trước rồi đấy, mày mà bán cho ai thì đừng có trách". Nhìn thấy lão Vận mọi người đã vội tản ra, ai cũng thừa hiểu không ai đọ nổi với lão, mà cũng không muốn dây với lão. Vì nếu không, sẽ phải nhận một tai họa gì đấy.  Nhìn cô bé tiu nghỉu quay đi, A Sình thấy tội quá. Nhưng A sình cũng hiểu không bán cho lão Vận thì A Sình cũng không thể bán cho ai được. A Sình ngậm ngùi nhìn theo cái dáng cô bé đang lẫn vào đám đông trong chợ. A Sình mải nhìn chẳng cần cò kè với lão Vận nữa, mặc cho lão đang cười tít, nhe cả vòm lợi thâm xỉn.

A Sình vội đuổi theo cô bé. "Này, áo hoa, nhà ở đâu để lần sau tôi sẽ mang đến cho".

- Ơ, anh bán mật cho em thật à, thế thì tốt quá, anh nhớ mang đến nhé.

Cô bé reo lên rồi túm lấy tay Sình kéo đi, làm Sình nóng bừng cả mặt. "Nhà em ở ngay trong thị trấn thôi mà". Trên đường đi cô gái luôn động viên: "Sắp đến rồi, sắp đến rồi đấy", nhưng A Sình chỉ muốn nó đừng bao giờ đến. Cô bé vừa đi vừa ríu rít nói chuyện.

"Hồi trước bố em là bộ đội đóng quân ở trên này, mẹ em cũng là người Mèo đấy. Bố em bảo hoa mận trắng ở đây rất đẹp nên đặt tên cho em là Mận". "Ừ Mận rất đẹp". Tự nhiên A Sình bật ra khỏi miệng cái ý nghĩ mà Sình đang nhốt kín ở trong lòng.

Hai người leo lên một con dốc cao, Mận chỉ tay về một dãy nhà lá ngay trên sườn đồi: "Nhà em trên kia kìa, nhưng ở dãy nhà cuối ấy, còn dãy trên này là chỗ bố em làm việc". Tuy mới ở trình độ thoát mù, nhưng A Sình cũng đọc được hàng chữ to đùng ở cái bảng gỗ trên cánh cổng vào khu nhà lá: "Ủy ban hành chính huyện…". Té ra Mận là con cán bộ. A Sình bỗng thấy buồn khôn tả. " Thôi, tôi phải về đây". Nhìn thấy cái mặt đang tươi hơn hớn của A Sình bỗng xịu lại, Mận cũng thấy lo lo: "Anh có mang đến thật không? Bố em đang rất cần mà". A Sình chỉ gật đầu rồi vội vã quay đi, đến lưng chừng dốc, bỗng Sình quay lại vẫn thấy Mận đang đứng nhìn theo. Sình chụm tay như kiểu hú gọi nhau trong rừng: "Đầu tuần trăng tới, đợi tôi ở chân dốc này nhé, tôi sẽ mang đến". Đằng kia Mận cũng khum tay đáp lại: "Nhớ rồi, em sẽ đợi".

     Dưới chân dốc có cây lim cổ thụ là nơi Sình và Mận gặp nhau. Lần nào cũng một hũ mật ong vàng tươi như nắng thu, nhưng Mận không đủ tiền để mua hết. Ừ, không mua thì thôi, A Sình gửi lại chứ không mang ra chợ bán cho lão Vận đâu. Không có tiền bán mật nhưng bù lại, A Sình có được một buổi đi chơi với Mận. A Sình đã nắm được bàn tay mềm như lông chim rừng của Mận. A Sình thổi kèn môi cho Mận nghe, khiến đôi mắt Mận cứ mơ mơ màng màng như đang chếnh choáng hơi men. A Sình như một cơn gió rừng thổi vào lòng Mận những điều mới lạ. Lần nào cũng vậy, nắng lên đến đỉnh đồi rồi mà hai người vẫn chưa muốn rời nhau.

Mận bảo: "Bố muốn em học xong trường huyện, sẽ phải lên trường tỉnh học cấp ba, rồi phải đi đại học nữa…Như vậy là em phải xa A Sình rồi". "Tôi cũng đi bộ đội mà, tôi đi bộ đội để rửa cái xấu cho cha tôi". A Sình nắm chặt tay Mận: "Mận có chờ tôi đi bộ đội về không? Mận có muốn làm vợ tôi không?". Mận im lặng, nhưng bàn tay Mận cũng nắm lại rất chặt bàn tay của A Sình. Đôi mắt đen của Mận rưng rưng.

Trước khi nhập ngũ, A Sình đã lội bộ hai ngày đường để đến gặp Mận ở tận trường nội trú trên tỉnh. Thế rồi trên cái đồi thông hoang vu ấy, A Sình đã dám ôm ghì Mận vào lòng hít hà hương tóc thơm mùi hoa dẻ và làn môi ngọt như mật ong của Mận. Nước mắt của Mận đã chảy tràn như cơn lũ chứ không còn rưng rưng như sương mai nữa, cái miệng xinh như hoa mua cũng rũ xuống như gặp trận mưa rào: "Em nhớ A Sình lắm, A Sình đừng đi nữa". A Sình lắc: "Tôi đi bộ đội thì cha mẹ Mận mới đồng ý cho tôi cưới Mận, tôi sẽ lập công để bù lại cái tội phản quốc của cha tôi". "Không đâu, bố em bảo thời bây giờ khác rồi, cha mẹ không ngăn cản con cái nữa. Em muốn làm vợ A Sình, chắc bố mẹ em cũng đồng ý mà".

    Trong những năm ở chiến trường A Sình chỉ viết cho Mận có mỗi một lá thư, vì A Sình phải đánh vật với các con chữ, chứ tình cảm của A Sình thì như dòng thác. A sình nhận được nhiều thư của Mận lắm. Nhưng những lá thư ấy không còn là của riêng Sình nữa mà là của cả đơn vị. Bao giờ A Sình cũng là người sau cùng để nhấm nháp từng chữ một trong góc kín nào đó, để hít hà cái hương rừng còn đọng lại ít nhiều trong lá thư nơi miền Tây Bắc xa xôi.

*

    Lão Sình vừa đi vừa tủm tỉm cười một mình, lão không sợ ai trông thấy vì đường còn vắng lắm, chỉ nghe có tiếng suối róc rách chảy hai bên đường, tiếng con chim giật mình vỗ cánh. Mùi thơm nồng ngậy của hơi mèn mén nhà ai đang đồ, những con chó, con lợn chạy nghênh ngang ra đường như giờ này mặt đường là lãnh địa riêng của chúng. Con đường xuống núi bây giờ cũng khác hẳn ngày xưa. Đường lát bê tông, lát đá, rồi rải nhựa phẳng lỳ rộng bằng hai ôtô đi vừa. Đang vào mùa thu, những vườn đào, vườn mận đang vào mùa trút lá, trơ cành khẳng khiu làm lão thấy mủi lòng nhớ đến cái mùa xuân năm nào, rét như cắt da mà hoa mận vẫn cứ nở trắng trời như  mây bay. Ngày xưa cũng cái gùi mật ong này, lão đã từng băng băng vượt qua những con suối, con dốc gập ghềnh giữa một mùa đông lạnh giá với niềm vui vô bờ bến.

    Lão nghĩ đến hiện tại chợt thấy buồn. Bây giờ xuống chợ chẳng ai biết lão, có khi người ta còn nhìn lão với vẻ kinh tởm, sợ hãi. Tưởng đâu lão là hủi ở rừng xanh trốn về. Nhưng cho dù như thế, lão cũng phải gặp được người đàn bà ấy, gần bốn mươi năm rồi, nhưng đôi mắt ấy, cái miệng ấy không thể là ai khác được. Mận đang là phó chủ tịch huyện ư? Dù chỉ vài giây chợt thoáng trên ti vi nhưng lão Sình không để trôi qua mắt được. Hình ảnh người đàn bà đẫy đà ngồi sau cái bàn giấy để trả lời phỏng vấn về công việc chuẩn bị cho ngày lễ hội cứ luôn ám ảnh lão. Nhưng sao người ấy lại có tên là Mây. Tai lão còn thính hơn tai con nai trong rừng cơ mà, làm sao không nghe rõ được: Bà Thào Mây, một cái tên đích thị của người H Mông.

    Đến giữa trưa, lão Sình mới ngập ngừng đứng trước cái cánh cổng sắt, bên cạnh có cái biển đề bằng dòng chữ chạm nổi màu vàng óng ánh: UBND huyện…Người thường trực chạy vội ra khi thấy một ông già ăn mặc lôi thôi với gương mặt thật khó coi cứ nghiêng nghiêng ngó ngó trước cánh cổng: "Bác …có việc gì?". "Tôi…tôi cần gặp, à tôi muốn gặp bà Phó chủ tịch để thông báo một sự việc liên quan đến tình trạng rừng ở xã tôi". "Bác có hẹn chưa?". "Dạ hẹn gì, tôi đến đây lần đầu mà". "Thế sao phải cần gặp Phó chủ tịch?". "À là vì tôi là người cùng bản với bà Phó chủ tịch mà". "Thôi được rồi, bác đợi cháu gọi cho cô ấy đã". Một lúc anh ta khoát tay: "Vào đi, trên tầng hai, phòng cuối cùng". "Vâng, tôi biết chữ mà".

Lão Sình run run bước từng bước lên cầu thang, thỉnh thoảng phải dừng lại, không phải vì mệt mà vì con tim lão đang đập loạn xạ như cái hôm nào đứng đợi ở chân dốc nơi thị trấn. Lão hít một hơi thật sâu rồi khẽ khàng gõ cửa. Người đàn bà vẫn ngồi yên trên ghế sau cái bàn chìa một tay ra mời lão ngồi. Lão cóm róm ngồi xuống một cái ghế gỗ màu mun bóng lộn. "Bác ở bản Nán xuống à". "Không, à vâng". "Tôi nghe thường trực báo là có bác người nhà trên quê xuống. Bác là ai nhỉ?". "Tôi cùng bản với cô thôi, tôi biết cô chứ cô không biết tôi đâu". "À vâng, tôi xin lỗi, từ ngày mẹ tôi mất, tôi cũng ít về quê ngoại. Bác xơi nước đi, bác gặp tôi có việc gì cần không?". "Có, tôi phát hiện ra một con thác tự nhiên ở sâu trong rừng, con thác đẹp lắm, nếu được khai thác đầu tư thì sẽ biến thành một điểm du lịch sinh thái khá đẹp của huyện nhà". "Ồ thế ạ, hay quá. Tôi sẽ cho đoàn khảo sát xuống tận nơi xem sao. Bác tên gì nhỉ, ở chỗ nào, bác có thể dẫn đường cho chúng tôi?". "Vâng, cứ hỏi nhà anh Son con trai tôi, nhà tôi ở trên một ngọn đồi xung quanh trồng rất nhiều cây mận". "Vâng, thế cũng được. Bây giờ thế này nhé, trưa rồi, mời bác đi ăn cơm trưa với anh em chúng tôi". "Không, không, tôi ăn no rồi, đừng bận tâm".

    Đúng là Mận rồi, giọng nói ấy, gương mặt ấy, dù có già đi đôi chút nhưng vẫn là Mận với đôi mắt to có hàng mi rợp như tán cọ. "Xin lỗi chị là Thào Mây, hình như ngày xưa chị có về quê chơi và tôi thấy gọi tên khác". "À vâng, đúng là như vậy. Hồi ở nhà tôi tên là Mận, Nguyễn Thị Mận. Khổ nỗi hồi ấy, cái tên đặc người Kinh ấy, làm tôi không được xếp vào tiêu chuẩn ưu tiên người miền núi, mà tôi lại chỉ có một nửa dòng máu Kinh thôi. Tôi đi học muốn được ưu tiên là người dân tộc thiểu số thì phải đổi tên cho phù hợp với người thiểu số, nên cái tên tôi mới thành Thào Mây. Thào là họ của mẹ tôi, người dân tộc HMông". "Mận, Mận…" - Lão Sình bất chợt thốt ra cái từ mà lão phải ngậm trong lòng đến hàng mấy chục năm nay.

     "Vâng, đúng là Mận, chắc là bác có biết tôi khi còn là cô Mận". Lão Sình cứ lẩm bẩm như người bị ma nhập khiến người đàn bà có chút hoảng: "Bác, bác làm sao vậy, để tôi gọi các cháu nó đưa bác xuống". "Không sao, không sao, tôi đi được. À sắp tới tết Độc lập tổ chức ở thị trấn to lắm phải không? Tôi cũng muốn đi dự một lần". "Vâng, lần này có nhiều lễ hội của các dân tộc trong tỉnh lắm, tổ chức tới ba ngày đấy, bác xuống nhé". "À có tổ chức chợ tình không?

Chợ tình là phong tục của người Mèo xưa. Chợ tình không chỉ để cho trai gái tìm hiểu nhau mà còn là nơi gặp lại của những người yêu nhau mà không lấy được nhau nữa". "Vâng đúng thế, chắc chắn là phải có chợ tình rồi…chắc bác muốn đến đó để gặp lại người xưa chứ". "Vâng tôi cũng muốn gặp lại người yêu cũ, nhưng không biết người ấy có đến không. Xin lỗi chắc chị lấy được người mình yêu chứ".

    "Bác hỏi hơi kỹ quá, nhưng không sao, tôi cũng muốn có một người hỏi thẳng tôi như vậy mà không ngại. Tất nhiên tôi lấy chồng là người tôi yêu. Nhưng thời son trẻ, tôi cũng có một mối tình trẻ con, nhưng anh ấy đi bộ đội và không trở về. Tôi đã chờ mãi đến năm ba mươi tuổi mới lấy chồng. Chồng tôi là bộ đội biên phòng. Nhưng anh ấy đã hy sinh trong một lần truy bắt bọn buôn ma túy từ bên kia biên giới. Chúng tôi gặp nhau cũng trong một phiên chợ tình, anh ấy cũng là người HMông. Chính vì vậy mà chợ tình năm nào tôi cũng đi đến đó không phải để tìm người xưa mà tìm lại những kỷ niệm của chúng tôi".

Bà phó chủ tịch vui chân tiễn lão Sình ra đến tận cổng định quay lại thì lão Sình vội bảo: "Đợi chút", rồi chạy lại góc cổng lấy cái gùi lôi ra một chai mật ong vàng sóng sánh như màu nắng mùa thu. "Mật ong rừng nguyên chất đấy, biếu chị". Người đàn bà còn đang ngỡ ngàng chưa kịp từ chối, hay cám ơn thì lão đã vụt đi còn nhanh hơn cả con sóc trong rừng

  N.C.H
Theo VNCA