/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

THƠ VĂN BẠN BÈ

BÌNH MINH CỦA ĐẤT

Đi giữa đất này, ngắm nhìn cùng tháng năm, dòng chảy, tôi thường lắng sâu, nghĩ về những đỉnh cao, những bình minh trên mảnh đất, thân yêu...

BÌNH MINH CỦA ĐẤT

Bút ký của nhà văn KIM CHUÔNG

 

     Là cá thể thật mong manh, bé nhỏ đi giữa sự vận động của ba cõi càn khôn, đi giữa tháng năm này, tôi thường ngắm trông vũ trụ quanh mình và nghĩ. Cả trái đất chỉ có một mặt trời. Nhưng, mỗi châu lục, mỗi đất nước, quê hương, xứ sở, thậm chí mỗi cuộc đời riêng ai đó, họ cũng có riêng một mặt trời… Mặt trời riêng đời họ!…

 Thật đúng vậy. Chỉ có điều, mặt trời ấy là gì? Bình minh ấy là gì? Với cái Riêng, với cái Chung trước sự thức dậy, sự tỏa rạng trong ý nghĩa lớn lao, trùm tỏa. Trong ý nghĩa dẫn đường, mở lối cho mảnh đất, cho tháng năm, cho thời đại, cho thế hệ, đời người…

    Trên quê hương Vĩnh Bảo, Hải Phòng, mảnh đất nằm giữa ba dòng sông Luộc, sông Thái Bình và sông Hóa như nằm giữa ba dòng vọng vang và dào dạt của ba bài ca lớn. Đất Vĩnh Bảo, với 29 dải làng, với mười chín vạn một ngàn (191.000) trái tim yêu dấu[1]… Tự lịch sử ngàn xưa. Tự năm trăm năm trước, cách chúng ta tới nửa thiên niên kỷ xa dài, người dân ở đây đã mang niềm tự hào trước non sông, trước dân tộc Việt. Trước thế giới rộng lớn: Một Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một “đại thụ” bao trùm cả thế kỷ mười sáu. Một người con. Một mặt trời của quê hương. Của đạo học. Của chiêm tinh học. Của thi ca, triết luận. Của khoa bảng, quan trường… Một ngôi sao. Một minh tinh làm rạng danh tên đất... 

    Dọc lộ trình của một miền đất đai có chân dung, dáng vẻ mang tên Vĩnh Bảo ấy, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm nên vầng mặt trời đầu tiên, cao vọi. Bây giờ, giữa một vùng không gian của quê hương Lý Học, tượng đài Ông, “Bia đời trường tồn ” của đời Ông, còn uy nghiêm, lừng lững giữa mây trời. 

     Rồi, thế kỷ XX. Với Việt Nam, từ 1932 đến 1942, một thập kỷ, trong dòng chảy lịch sử văn học nước nhà bỗng dào lên bước ngoặt, bước phát lộ một trường phái, một dòng văn chương “hiện thực lãng mạn” mà Khái Hưng (tức Trần Khánh Giư, anh ruột của nhà văn Trần Tiêu) người đất Cổ Am, Vĩnh Bảo đã cùng nhóm “Tự lực văn đoàn” khai sáng, làm nên dấu ấn “vang bóng một thời”…

     Hai điểm sáng mang hai đỉnh trên dặm dài mảnh đất với lịch sử “năm tháng tìm mình” trên quê hương Trạng Trình sẽ mãi còn với sử xanh, với năm tháng ngàn sau …

 Với truyền thống cách mạng. Truyền thống yêu nước, đánh giặc, cứu nước. Một đỉnh cao nữa ở vị thế khơi nguồn này, Nguyễn Văn Ngọ, một cán bộ cách mạng tiền bối, người Cộng sản đầu tiên của Vĩnh Bảo đã trở thành một trong những nhân vật lịch sử của cách mạng Việt Nam.

     Ở đất này, Nguyễn Văn Ngọ đã hóa thành ngôi sao, là bình minh mang ý nghĩa dẫn đường.

Đấy là. Vào cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ thứ XX. Từ làng nhỏ Hạ Đồng của quê hương Cộng Hiền, Vĩnh Bảo chúng ta, Nguyễn Văn Ngọ, một sinh linh bé nhỏ, một con người như muôn vạn con người, nhưng lại có được tất cả sự hội tụ, sự thăng hoa, phát sáng. Để chính ông đã trở thành “một mặt trời” sơ khai, xa khuất. Mặt trời của những “bóng người lịch sử,” lặn lội trong đêm dài thế kỷ, quyết một lòng ra đi “tìm hình của nước.”  

     Cái vĩ đại của người chiến sỹ cách mạng Nguyễn Văn Ngọ là gì? Khi, ông chỉ là giáo dân ở một vùng quê nghèo trước cảnh sống tối tăm, cùng cực. Nhưng, cái khác người, cái phi thường ở ông là ánh sáng, là tri thức có được. 

     Có lẽ, ông là con một nhà nho yêu nước. Bởi vậy, trí tuệ đã đắp bồi và phát lộ trong ông từ những trang sách đã làm ông “mở mắt nhìn đời.” Từ  buổi ông bước chân vào Trường Tư thục do Linh mục người Tây Ban Nha mở, những mong sau này Nguyễn Văn Ngọ sẽ được giáo huấn, sẽ trở thành Linh mục hay Lý trưởng ở làng. Rồi, buổi bước chân vào trường Bưởi Hà Nội, ngôi trường danh tiếng đệ nhất của nền giáo dục nước Nam thời đó.

    Quả tình, không có tri thức, làm sao ai đó, lại có thể nhận biết được thế giới vạn vật? Làm sao lý giải, cắt nghĩa được cõi Người? Cõi càn khôn rộng lớn? Với bao nhiêu thế sự biến thiên kia?

 Rõ ràng, là giáo dân, nhưng tri thức đã đem lại cho Nguyễn Văn Ngọ một chân trời nhận biết. Tri thức đã đem lại cho Người chiến sỹ cách mạng một tự thức, một lý tưởng, một khao khát cháy bỏng. Đấy là, “Yêu nước. Đánh giặc. Và, quyết đứng lên giành lấy nền độc lập, tự do cho Tổ quốc, quê hương. Giành lấy cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho dân mình, cho những người cần lao thoát khỏi cảnh đói nghèo, nô lệ.” 

     Thế rồi, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc đã nâng dậy tầm nhìn cho người chiến sỹ cách mạng. Không còn cái hẹp trong quan niệm, trong quy vùng lương giáo, hay phân biệt các giai cấp, giai tầng xã hội, khi Tổ quốc đã thức dậy trong ông một mặt trời vẫy gọi.

     Từ năm 1925, khi đang học ở Trường Bảo Hộ (Bưởi) do cụ Nguyễn Văn Tố làm Giám đốc, ông trở thành bí thư của một tổ chức yêu nước theo phong trào “Tâm tâm xã”... Rồi đến cuối tháng 3 năm 1926  Nguyễn Văn Ngọ đã đứng ra tổ chức toàn trường làm lễ truy điệu cụ Phan.

    Từ ngọn lửa yêu nước được thắp lên tự trái tim mình, Nguyễn Văn Ngọ đã giác ngộ, vận động những người thân yêu trong làng xã, rồi cả năm anh em trai trong một gia đình ông đều chung lòng đi theo cách mạng.

     Là “Người cùng thời,” từng gặp gỡ, làm việc với các nhân vật sau này trở thành những lãnh tụ tên tuổi của đất nước, như Trần Phú, Trường Chinh,  Lê Duẩn, Lê Thanh Nghị, Ngô Gia Tự, Lương Khánh Thiện v.v… Năm 1927 ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, rồi đến tháng 8/1929 gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương, đầu năm 1930 Nguyễn Văn Ngọ từng là Xứ ủy viên trong Ban chấp hành Xứ ủy Bắc Kỳ. Từng là Chủ tịch Ủy Ban Cách mạng lâm thời huyện Vĩnh Bảo ngay từ ngày cách mạng thành công (22/8/1945).

    Trên mảnh đất Thái Bình quê lúa. Nguyễn Văn Ngọ đã hai lần gắn với đất này với tất cả máu xương và chiến công của đời người chiến sỹ cách mạng.

Đó là, cuộc biểu tình vang động nhất trong lịch sử của những người nông dân Tiền Hải với đất nước. Câu ca “Tiếng trống năm ba mươi còn vọng mãi đến bây giờ…” là sự kiện gắn liền với cuộc đời chiến đấu của Nguyễn Văn Ngọ. Bởi, từ giữa năm 1930, Nguyễn Văn Ngọ được Xứ ủy Bắc Kỳ cử về Thái Bình và đảm nhiệm trọng trách với cương vị là Thường vụ Tỉnh ủy. Là một trong những lãnh đạo trực tiếp có công lớn trong phong trào nổi dậy đấu tranh của nông dân Tiền Hải năm 1930.

     Tại nhà hát lớn Thị xã Thái Bình, Nguyễn Văn Ngọ đã bị bắt trước việc lãnh đạo, tổ chức treo biểu ngữ, phản đối sự đàn áp dã man của thực dân Pháp và kỷ niệm ngày cách mạng tháng 10 Nga. Bị Tổng đốc Vi Văn Định trực tiếp chỉ đạo ra đòn, tra khảo. Nguyễn Văn Ngọ sau đó bị kết án và đày đi các nhà tù tại Hải Phòng, Sơn La. Đến tháng 9 năm 1931 tại tòa Thượng thẩm, ông bị coi là “người trọng yếu” bị kết tội “khuynh đảo Chính phủ”, chịu 20 năm khổ sai, mức án nặng nhất và bị đầy đi Côn Đảo với các cuộc tra tấn “thừa sống thiếu chết”.

    Bảy năm tù tội, khi thoát khỏi nhà lao, Nguyễn Văn Ngọ lại tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1939, (8 năm sau) khi phong trào cách mạng ở Việt Nam bị chính quyền thực dân ở Đông Dương ra sức đàn áp, khủng bố, Nguyễn Văn Ngọ lại bị đế quốc Pháp bắt lần nữa và đầy đi Căng Bá Vân (Nghĩa Lộ). Đầu năm 1945 ra tù, về làm Chủ tịch Ủy Ban Cách mạng lâm thời huyện Vĩnh Bảo. Tháng 1 năm 1946, Nguyễn Văn Ngọ vừa tròn bốn mươi tuổi, ông được Trung ương điều về Thái Bình với tư cách là Khu Ủy viên Liên khu III, giữ chức vụ Chủ tịch Ủy Ban kháng chiến hành chính tỉnh Thái Bình. Từ tháng 4 năm 1948 đến tháng 4 năm 1951 là Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Thái Bình.

     Hai lần đến với Thái Bình. Sống, gắn bó với một vùng đồng bằng, quê lúa. Nhiều năm ở Thái Bình, với hai giai đoạn cách mạng cực kỳ gian lao, ác liệt. Trong cuộc chiến “một mất một còn”, không tiếc máu xương, kiên quyết giành lấy nền độc lập, tự do cho quê hương đất nước. Người chiến sỹ cách mạng Nguyễn Văn Ngọ đã có với Thái Bình, với đất này, phần thắm đỏ, nặng sâu của máu thịt đời mình. Của bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, của đau thương, và kiêu hãnh với kẻ thù, với đồng đội và sự nghiệp cách mạng to lớn. 

    Một chiến công lặng thầm mà sử sách muôn đời còn ghi nhận. Đấy là, sau cách mạng tháng Tám 1945, sự kiện Nguyễn Văn Ngọ được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ làm Đặc phái viên của Chính phủ Cách mạng lâm thời, gặp Tổng đốc Vi Văn Định tại châu Lộc Bình - Lạng Sơn, để thuyết phục viên Tổng đốc này tự đầu hàng, quy phục. 

 Một tình huống thật éo le, phức tạp. Thật “kịch tính” trong giải pháp, kết cấu. Nguyễn Văn Ngọ phải giáp mặt với Vi Văn Định ư? Viên Tổng đốc tỉnh Thái Bình, kẻ  từng chỉ đạo ra đòn tra tấn, rồi bỏ tù Nguyễn Văn Ngọ.

    Hai kẻ thù đối mặt. Hai thế lực đối kháng. Hai dòng đối thoại cần bộc lộ một trí tuệ ngời sáng, một thế đứng trội vượt, một nghệ thuật biến hóa tuyệt vời. Và, cuối cùng là sức mạnh vô bờ của nhân tâm, của tinh thần đại nghĩa, của đỉnh cao: Chiến thắng! …

    Với con mắt xanh trong việc chọn người, chọn việc, quả tình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn đúng một “sứ thần”, một tài năng Nguyễn Văn Ngọ. Một con người sẵn mang trong óc, trong tim sự giàu có của tri thức. Sự tỏa sáng của nhân cách, của trí tuệ, tâm hồn. Của khoa ngữ ngôn có trong trường đời, thiên bẩm… Để, cuối cùng, trước sự đấu lý, thuyết phục của Nguyễn Văn Ngọ, Vi Văn Định, một Tổng đốc, một “ông vua xứ tự trị Cao Bắc Lạng” đã tự tỉnh ngộ, tự quy hàng, tự nguyện làm một thành viên tích cực trong phong trào đại đoàn kết dân tộc Việt Nam… Mà trước đó, Vi Văn Định, với nỗi lo đã tự thốt lên: “Cứ ngỡ, Chính quyền cách mạng này. Kẻ tư thù Nguyễn Văn Ngọ kia sẽ trả thù ông. Sẽ bắt và trừng trị tội ông”… 

Chiến công và phẩm giá của người chiến sỹ cộng sản là thế.

    Với sự nghiệp cách mạng, sự hy sinh của Nguyễn Văn Ngọ trải dài ở cuộc đời, ở sự hiến dâng từ thời thanh xuân, từ tuổi đời còn đôi mươi, mười tám.

Với hai bàn tay trắng. Với trái tim sục sôi lòng yêu nước, thương nhà, cuộc đời người chiến sỹ cách mạng khi dấn thân vào con đường cứu nước, họ được gì ngoài tù đầy, ngoài đầu rơi, máu chảy?

     Với hai lần bị giam cầm, tù đầy, tra tấn. Bị đánh đập, hành hạ dã man. Sức khỏe của Nguyễn Văn Ngọ bị tổn thương nghiêm trọng. Nhiều lần, ông phải lánh về góc khuất của nhà thờ đất quê, nhờ mẹ cha, anh em phục thuốc. Những lần, cả hai vợ chồng ông đều bị bắt. Khi, bà Triệu Thị Đỉnh, vợ ông, người chiến sỹ cách mạng từng hoạt động cùng thời với Lương Khánh Thiện. Bà Đỉnh từng bị bỏ tù khi bụng mới mang thai. Bà gặp ông trên đường làm cách mạng. Tình yêu của họ nảy sinh trong đêm lặn lội, bí mật vượt sông, lánh giặc. Hay đêm ngủ hầm, buổi rải truyền đơn, buổi biểu tình bị kẻ thù đàn áp. Đám cưới họ là dăm ba đồng đội với ly rượu suông cùng chén trà và lời nguyền lứa đôi, thề nguyện ước trăm năm. Dọc đường đánh giặc, họ đâu có loan phòng, có mái nhà nho nhỏ, có những ngày yên bình hạnh phúc. Những phút giây gặp nhau thoáng chốc rồi vội vã chia tay. Những lần sinh con chỉ một mình người đàn bà vượt cạn. Những lúc phải địu con trên vai dọc đường chiến dịch, hay nhiều lần phải tìm cách gửi con cho ai đó nuôi giùm …

    Tình yêu của họ là vậy. Hạnh phúc của họ là vậy. Họ đâu có cái Riêng. Họ chỉ có cái chung. Chỉ có cái lớn lao là Tổ quốc, quê nhà. Họ thực sự nhận về mình tất cả sự hy sinh, sự hiến dâng lớn nhất.

    Vào ngày mồng 4 tháng 6 năm 1954, sau chín năm trường kỳ kháng chiến, khi chiến thắng Điện Biên phủ, (7/5/1954), cả miền Bắc, nửa đất nước Việt Nam thân yêu đã hoàn toàn giải phóng… Nhưng, người chiến sỹ cách mạng Nguyễn Văn Ngọ đã không còn nữa. Bởi, trên đường đi công tác ông đã hy sinh tại Trung Quốc.

     Bốn mươi năm, một nấm mồ đơn côi, thầm lặng, một nắm cỏ xanh rì nằm khuất xa nơi đất khách, Nguyễn Văn Ngọ, người chiến sỹ cách mạng ấy, “là thế nào và có gì…?” Ông Ngọ đâu có nửa lời than van, đòi hỏi?

Khi vợ ông, người thân yêu lúc tuổi cao, buổi nghỉ hưu (1970), đất nước nhà vẫn đang cơn khói lửa, binh đao, đánh Mỹ. Khi hai đứa con trai ông Ngọ đều sớm đi xa, chưa ai xây dựng gia đình. Khi bà Triệu Thị Đỉnh, người đàn bà sống một mình góa bụa trước gánh nặng của năm tháng, cõi người…

   Vào tuổi ngoài tám mươi, những ngày yếu đau, gần đất xa trời, bà Đỉnh vẫn đau đáu niềm mong, đưa được di hài người chồng mình về nước. Và, khi Tổng Bí thư Đỗ Mười, người cùng Đảng bộ với bà Triệu Thị Đỉnh những ngày cách mạng còn trứng nước. Với tình cảm đồng chí, đồng đội thân yêu, Tổng Bí thư Đỗ Mười cùng Ban tổ chức Trung ương Đảng, Bộ Ngoại giao đã lo việc đưa được hài cốt Nguyễn Văn Ngọ từ Nghĩa trang Liệt sỹ Cách mạng Bắc Kinh về nước.

 

Nhà cách mạng Nguyễn Văn Ngọ (1906 - 1954)

    Bấy giờ, trên bia dựng, ghi bằng hai thứ tiếng Trung Việt còn in nguyên dòng chữ trong nét khắc sâu đậm:

“Mộ Liệt sỹ Nguyễn Văn Ngọ

 - Sinh 06 – 1906.

 - Hy sinh 04 – 06 - 1954.” 

   Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho biết: Hàng năm, vào những ngày lễ lớn của dân tộc. Ngày giỗ ông. Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, có lần, cả nguyên thủ quốc gia trong các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ … Rồi, hàng trăm đoàn khách du lịch, hàng chục đoàn ngoại giao của Việt Nam khi đến Bắc Kinh, đều đến Nghĩa trang Liệt sỹ Cách mạng Bắc Kinh đặt hoa, thắp hương, kính viếng hương hồn Liệt sỹ Nguyễn Văn Ngọ

   Bây giờ, đã 22 năm, ông Ngọ đã về với quê hương, yên nghỉ nơi Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội (4/1994). Nhưng, điều bà Triệu Thị Đỉnh lúc còn sống vẫn còn đau đáu trong lòng, đó là, từ rất sớm, các tư liệu báo chí trong nước, nước ngoài đều viết về người chồng của bà, đều tôn vinh “Nguyễn Văn Ngọ, một Liệt sỹ, một nhân vật lịch sử Việt Nam…”. Đảng ủy, chính quyền và nhân dân địa phương đã tôn vinh ông, in sách viết về ông, rồi làm bức phù điêu bằng đá quý đều ghi “Liệt sỹ Nguyễn Văn Ngọ”… song đến nay gia đình bà vẫn chưa có tấm bằng "Tổ quốc ghi công".

    Bốn mươi chín năm, một đời người chiến sỹ cách mạng (1906 – 1954). Nguyễn Văn Ngọ đi từ làng nhỏ Hạ Đồng, Vĩnh Bảo qua con đường chiến đấu, giành lại nền độc lập, tự do cho Tổ quốc… tới Bắc Kinh rồi quay về ngàn năm với “Đất Mẹ!”

Một chặng đường. Một đời người. Một tia nắng xa khuất ...

Với Vĩnh bảo quê hương, Nguyễn Văn Ngọ, Ông là một Mặt trời khai sinh. Người mở nguồn dòng chảy dài của truyền thống đấu tranh cách mạng.

    Đi giữa đất này, ngắm nhìn cùng tháng năm, dòng chảy, tôi thường lắng sâu, nghĩ về những đỉnh cao, những bình minh trên mảnh đất, thân yêu...

Hải Phòng, Tiết Thanh minh - 2016

K.C


[1] Dân số huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng: 191.000 người (Thống kê, cập nhật tháng 5/2015)