VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
Những bài khác
Dịch thơ: nói dễ, làm khó!
Song đừng nhân danh đổi mới mà phủ định những giá trị sáng tạo đích thực của người đi trước, với một thái độ thiếu tôn trọng...| Dịch thơ: nói dễ, làm khó! |
||||||||||||||
Dịch thơ là một công việc vô cùng khó khăn. Vì thế, khi dịch giả chuyển tải được 70-80% nội dung của tác phẩm và đồng thời bản dịch vừa thoát ý lại vừa có chất thơ nữa thì đã là đáng quý, đáng trân trọng lắm rồi. Còn như cố dịch cho sát nghĩa, gò vào cho đúng niêm luật, câu chữ của nguyên tác thì bản dịch thơ chưa chắc đã được bạn đọc chấp nhận.
Vừa rồi, đọc bài của tác giả Lê Tiến Thức trên Báo Văn nghệ số 43 (26/10/2013), tôi thấy tác giả chê các bản dịch thơ của Tương Như (tức nhà thơ Nam Trân) là "chưa đúng, chưa ổn, không chuyển tải được ý và nghĩa trong bản gốc…". Và ông Lê Tiến Thức "mạnh dạn đưa ra bản dịch" mới của mình trên cơ sở "mạo muội chỉnh sửa bản dịch" đã có trước đó (ở đây là các bản dịch của Nam Trân) để bạn đọc so sánh. Điều này là đáng ghi nhận. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó để mọi người tham khảo thôi, thì cũng chẳng có gì đáng nói. Bản dịch đó hay hay chưa hay thì để bạn đọc và thời gian trả lời. Song đáng trách là trong bài viết của mình, ông Lê Tiến Thức có những nhận xét, đánh giá thiếu khách quan, nếu không muốn nói là quá tự phụ, khiến tôi không thể không lên tiếng. Ở bài viết của mình, ông Lê Tiến Thức chia làm hai phần. Tôi cũng xin theo đó mà trao đổi lại. 1. Từ những bài thơ Đường nổi tiếng… Trong phần này tác giả lấy hai bài để làm dẫn chứng: "Vọng Lư Sơn bộc bố" (Xa ngắm thác Núi Lư) và "Tĩnh dạ tứ" (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) đều của "thi tiên Lý Bạch". Ở bài "Vọng Lư Sơn bộc bố", sau khi chê bản dịch của Nam Trân là chưa chuẩn, chưa đúng, tác giả đưa ra bản dịch mới của mình "mong được trao đổi". Tôi xin chép lại các bài thơ đó, bao gồm cả phiên âm chữ Hán, dịch nghĩa và dịch thơ để mọi người tiện theo dõi. Bài "Vọng Lư Sơn bộc bố": Phiên âm:
Dịch nghĩa:
Bản của dịch giả Nam Trân:
Còn đây là bản dịch của Lê Tiến Thức:
Tác giả Lê Tiến Thức cho động từ "rọi" của Nam Trân "không tương thích với không gian nghệ thuật trong nguyên tác" bằng động từ "chiếu" của mình. Rồi từ "tưởng" của Nam Trân cũng "không có được sắc thái biểu cảm" như từ "ngỡ" của Lê Tiến Thức. Tôi cho rằng nói điều này tác giả Lê Tiến Thức quá chủ quan rồi. Hai bản dịch đều có những cái được và cái chưa được. Song với riêng tôi, bản dịch của Nam Trân hay hơn, thần thái hơn bản dịch của Lê Tiến Thức nhiều. Câu thứ ba của Nam Trân hơn hẳn câu thứ ba của Lê Tiến Thức: Vì có được hình ảnh dòng thác nước bay thẳng xuống từ độ cao ba nghìn thước ở câu trên thì thi nhân mới "Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây" chứ. Còn dịch như Lê Tiến Thức "vút bay" (chỉ có thể hiểu là bay lên) ở câu trên thì sao hợp với từ tuột (xuống) ở câu dưới được! Hơn nữa, chữ "thẳng" (tức chữ " trực" trong nguyên tác) ở câu thứ ba của Nam Trân mới hay, mới tạo cảm giác mạnh của thác nước. Nếu đem chuyển chữ "thẳng" lên câu hai như của Lê TiếnThức lại làm phân tán hình tượng thơ. Như vậy, bản dịch của Nam Trân hay hơn bản của Lê Tiến Thức là cái chắc!
Còn đây là bài "Tĩnh dạ tứ": Phiên âm:
Dịch nghĩa:
Bản dịch thơ của Nâm Trân:
Bản dịch thơ của Lê Tiến Thức:
Cũng tương tự như cách lập luận chủ quan ở phần trên, sau khi chê Nam Trân tự ý "thêm hộ Lý Bạch hai động từ nữa vào bản dịch của mình", Lê Tiến Thức vẫn cho rằng từ "ngắm" của mình hơn hẳn từ "nhìn" của Nam Trân bởi nó "tỏ tâm trạng của Lý Bạch đúng hơn". Điều này chưa hẳn ai cũng nghĩ như vậy. Chưa kể trong năm động từ mà Lê Tiến Thức liệt kê, có hai chữ không phải là động từ mà là tính từ thì đúng hơn. Đó là hai chữ "nghi" (ngỡ là) và "tư" (nhớ). 2. Đến Hồ Chí Minh với "Ngục trung nhật ký": Trong phần này, dịch giả Lê Tiến Thức lấy ra ba bài của Bác để làm dẫn chứng cho những lập luận của mình. Bài "Đi đường": Phiên âm:
Dịch nghĩa:
Bản dịch thơ của Nam Trân:
Bản dịch của Lê Tiến Thức:
Cũng vẫn cách suy nghĩ đơn giản như trên, ông Lê Tiến Thức chê bản dịch của Nam Trân "chưa gần gũi với nguyên tác", chuyển bản dịch từ thất ngôn tứ tuyệt sang lục bát làm "giảm đi giọng điệu rắn rỏi trong nguyên tác". Nói như vậy là ông Lê Tiến Thức đã tự mâu thuẫn với chính mình rồi. Bằng chứng là: Mặc dù cố giữ cho được thể thất ngôn tứ tuyệt trong bản dịch, song nếu theo trình tự Khai - thừa - chuyển - hợp thì bản dịch mới của Lê Tiến Thức cũng chưa đạt độ chuẩn về vần (mặc dù thất ngôn tứ tuyệt cũng có biến thể). Lại nữa, câu thứ hai ở bản dịch của Nam Trân là một hình ảnh đẹp, hùng vĩ với cách điệp vần khá thú vị "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng". Còn ở bản dịch của Lê Tiến Thức thì câu này chỉ có ý và đơn giản như một câu kể "Qua dãy núi này còn dãy nọ". Còn nữa, câu thứ ba trong bản dịch của Lê Tiến Thức chữ bị lặp lại quá nhiều: Đã lên "đỉnh" lại còn "chót", đã "chót" lại còn "tận cùng"! Bài "Tự khuyên mình": Phiên âm:
Dịch nghĩa:
Bản dịch thơ của Nam Trân:
Bản dịch của Lê Tiến Thức:
Hai câu đầu ở bản dịch của Nam Trân hơn đứt hai câu đầu của Lê Tiến Thức về sự nhuần nhuyễn và lôgic. Còn câu kết của Lê Tiến Thức "Vượt chính mình mới thật vẻ vang" thì lại có điều phải bàn: Cụm từ "vượt chính mình" hiện đại quá, mới quá, sai ý tác giả. Hai chữ "vẻ vang" lạc vào đây không đúng chỗ. Có gì đó như sự tự kiêu hơi quá không hợp với tính cách của Hồ Chủ tịch! Nhân tiện cũng xin có đôi lời về chuyện dịch thơ Đường của Bác. Hẳn những ai yêu thơ cũng đều biết và ưa thích bài "Nguyên tiêu" của Hồ Chủ tịch và bản dịch "Rằm tháng giêng" của Xuân Thủy. Mặc dù cũng phải chuyển từ thất ngôn tứ tuyệt sang lục bát, mặc dù cũng phải bỏ đi một chữ "xuân" trong nguyên tác, nhưng có thể nói cho đến hôm nay chưa có bản dịch nào hay hơn bản dịch của Xuân Thủy! (cho dù khá nhiều người cũng cố công tìm cách dịch lại nhưng xem ra cũng chỉ được cái nọ hỏng cái kia thôi). Không chịu bằng lòng với cái cũ, muốn thay đổi, muốn đổi mới, đó là điều nên làm của người sáng tác. Song đừng nhân danh đổi mới mà phủ định những giá trị sáng tạo đích thực của người đi trước, với một thái độ thiếu tôn trọng! Sự đời, nói thì dễ, chê thì dễ, nhưng làm thì khó lắm thay! Thái Bình, 15/12/2013 |
Các tin khác
-
Hướng tới không gian học thuật mở hiện đại
-
Trịnh Thanh Phong đời người và đời văn
-
Văn chương còn nợ những người lính đã ngã xuống
-
NHỚ VŨ TỪ TRANG
-
Nhà phê bình Nguyễn Thanh Tú: Tự tin bước từ trang sách ra "trang đời"
-
NGƯỜI GIỮ HỒN CHO "NHÀ SỐ 4
-
Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu nói gì khi bài thơ Nếp nghĩ của ông vào đề thi tốt nghiệp THPT?
-
Chất chứa bi hùng ”Vương triều Tiền Lý”
-
KIM CHUÔNG - MỘT NGƯỜI THẦY CỦA CÁC NHÀ VĂN “NHÓM BÚP”
-
Hình tượng người lính biên phòng trong thơ ca kháng chiến chống Mĩ


