/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

LÝ LUẬN PHÊ BÌNH

Trịnh Thanh Phong đời người và đời văn

Nhưng từ Trịnh Thanh Phong văn chương, tôi nghiệm ra một điều, thời bây giờ, dù là tiểu thuyết, cũng không nên viết quá dài.

                               Trịnh Thanh Phong đời người và đời văn

.

       Tôi quen Trịnh Thanh Phong đã lâu lắm rồi, từ năm 1993, khi tôi mới về Tuyên đã gặp ông. Nhớ mãi lần ấy, Đại hội II Hội Văn nghệ Tuyên Quang xong, hôm sau ông mời tôi về nhà ông ăn cơm, uống rượu. Nhìn tướng người, tôi nhận ra một Trịnh Thanh Phong đời thường lão nông tri điền, chân thật nhưng hài hước. Ông thích vui thú điền viên. Hoa tươi quả ngọt chim hót véo von với vợ đẹp con khôn. Tôi nghĩ đời cho ông thế là đủ. Một vợ ba con dù nhà tranh vách nứa, còn hơn tôi lang thang về Tuyên không nhà không cửa. Bà Học vợ ông xinh đẹp hiếu khách. Các con ông bé tí, đon đả đón tôi, chào một bác hai bác, tôi cảm động quá.

Trịnh Thanh Phong đời người và đời văn
Nhà văn Trịnh Thanh Phong

Chơi với Trịnh Thanh Phong, tôi nhận ra một điều, ông sống rất chan hòa nên rất nhiều bạn bè. Chính nhà thơ Mai Liễu đã giới thiệu ông với tôi. Mai Liễu bảo, Phong hay lắm. Hay là thế nào, tôi chưa biết. Lúc Mai Liễu làm Tổng biên tập Báo Tân Trào, cả nhà Mai Liễu đều chơi với nhà Trịnh Thanh Phong rất thân.

Trịnh Thanh Phong chơi với vợ chồng họa sĩ Trần Thái, tôi có cảm giác như hai nhà đã kết thân với nhau, kết nghĩa anh em ruột thịt. Ông Phong gọi vợ chồng Trần Thái là cậu mợ. Các con Trần Thái và con Trịnh Thanh Phong chơi thân với nhau, ngày tết bù khú. Thật vui, ngày dài đêm thâu.

Trịnh Thanh Phong chơi với vợ chồng nhà văn Phù Ninh, Phù Ninh một bác hai em. Phù Ninh là Chủ tịch Hội, là Tổng biên tập Báo Tuyên Quang, là Chánh văn phòng Tỉnh ủy, là người của công quyền, quan chức, nên Phù Ninh - Nguyễn Văn Mạch chín chắn nói năng mẫu mực. Ông gọi một bác hai em là đúng rồi.

Nhưng bất ngờ hơn là Trịnh Thanh Phong chơi với tôi. Tôi với ông cùng trà lứa với nhau. Ông ông tôi tôi khi gặp nhau là đúng rồi. Nhưng tôi với ông còn một nghĩa liên gia rất đặc biệt.

Em tôi, Lê Hữu Long, làm ở mỏ thiếc Bắc Lũng được lên học ở thành phố Tuyên Quang cần tìm chỗ trọ học. Tôi bảo ông Phong: Tôi gửi thằng em đến ở nhờ nhà ông vì nó không có chỗ trọ học. Ông đồng ý ngay. Nhưng tôi không ngờ, những năm tháng trọ học ở nhà ông Phong, em tôi lại lọt vào mắt xanh của con gái ông Phong và chúng nó yêu nhau lúc nào không biết. Yêu nhau đến độ là phải có đám cưới. Nhưng hôm xin cưới, có một tình huống thủ tục thất lễ làm tôi nhớ mãi. Đoàn xin dâu có một cơi trầu làm thủ tục quan trọng nhất phải đi trước. Cơi trầu đặt trong hộp sơn son thếp vàng đậy nắp kín. Nhưng khi đoàn đi, cơi trầu quên không bỏ vào hộp. Tôi bận tiếp khách, giao cho chú Hùng, anh cả của Long chuẩn bị, không kiểm tra trước khi đi. Lên đám cưới mở hộp ra mới hay cơi trầu quên. Nhưng rồi ban tổ chức xử lý khéo với gia đình nhà gái, việc xin dâu ổn cả. Đón dâu về nhà, mọi người nói, tôi tái mặt nhưng việc đã rồi. Nhà văn Công Diệp, trưởng đoàn nhà gái, người rất thân tôi, nói: Không có gì cả, thủ tục ấy mà. Không sao. Tôi phải xin lỗi bác Đinh Công Diệp. Hôm sau, lại mặt, tôi phải trực tiếp đánh xe lên nhà ông bà Phong - Học và xin lỗi về sơ suất này. Ông Phong cười hì hì: Thôi, cho qua. Tôi nhận ra một Trịnh Thanh Phong đời thường đại xá trong ứng xử. Tôi nghe nói bà Học vợ ông Phong khóc mãi. Bà lo rồi cuộc sống vợ chồng chúng nó sau này có vấn đề. Nhưng rất may, các em tôi vẫn hạnh phúc và có hai cháu một trai một gái mạnh khỏe, học hành tốt. Được cái, em tôi, chú Long cũng có trách nhiệm với bố mẹ vợ nên các cụ rất quý. Và đặc biệt ông Phong sống với con cháu quá đỗi chu đáo.

Ngày tết, ngày giỗ hoặc dịp nào đấy vui vẻ người xứ Tuyên có lễ hội hè, bạn bè con đàn cháu lũ rất đông, nhiều mâm nhiều bát, nhiều bạn nhiều khách. Thật vui, tôi lại thấy một Trịnh Thanh Phong đời thường, dân dã, không hề quan chức, không hề lên lớp ta là nhà văn nhà thơ gì.

Bất ngờ con trai ông, Trịnh Thành Công bị ung thư. Ông sống dở chết dở. Con nhắm mắt ở bệnh viện, bố không biết. Các cháu sợ ông bà không chịu nổi tin sét đánh này. Nhưng chúng nó nhầm. Người nhiều tuổi tính xa lắm, ông dự tính hết mọi tình huống. Ông còn mua đất âm phần từ lâu để giữ phần về sau có ông bà con cái, không ngờ con ông đi trước. Tôi lại nhớ câu ca xưa Lá vàng còn ở trên cây/ lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời.

Nhớ về Xứ Tuyên, tôi có một người bạn tốt, có một gia đình liên gia tuyệt vời. Ông Phong ơi! Nhà thơ Gia Dũng đã lên trời, nhà thơ Mai Liễu đã lên tiên, nhà văn Nguyễn Trọng Hùng đã khuất núi, nhà văn Đinh Công Diệp đã về với ông bà... Bạn bè chúng ta, tôi tin, họ ngậm cười nơi chín suối, họ tự hào về ông, một nhà văn PHONG MA LÀNG, tên người đời đã đặt thế là đủ ông Phong ạ. Tôi ngẫm lại câu ở đời, trời không cho ai tất cả, trời cũng không lấy của ai tất cả. Ta đành chấp nhận thôi, ông Phong ạ.

2. Phòng văn của Trịnh Thanh Phong trật tự nền nếp, sách nào ra sách đó, sách xếp đầy bàn. Sách chất đầy ngăn, chật giá. Ông nói với tôi tay ông bị Parkinson, khó viết. Nhưng ông viết suốt ngày, suốt đêm, suốt năm, suốt tháng. Ông viết bằng cách nào tôi không biết.

Về Tuyên ngày ấy, biết đến Trịnh Thanh Phong, tôi đọc tập ký Bãi cuối sông in từ năm 1990, và thấy Nguyễn Trọng Hùng cầm cái đi trước, Trịnh Thanh Phong khép nép phía sau. Bãi cuối sông thuở ấy, tôi lại nhớ truyện ngắn của ông, Điều ấy sẽ ghi trong lý lịch, truyện ngắn rất ngắn nhưng đọc xong mấy chục năm sau tôi vẫn bị ám ảnh. Ông kể câu chuyện tình của một chàng trai xứ Thanh với cô gái Tuyên. Họ có một đứa con vụng trộm. Người đi chiến trận không trở về. Người ở nhà chịu bao tai tiếng và không dám nói thật có con với ai. Bãi cuối sông với tôi như kỷ niệm đầu tiên với Tuyên.

Tuyên Quang, văn tài cũng hơi nhiều. Riêng Trịnh Thanh Phong, chỉ cần một Ma làng là đã nổi tiếng cả nước. Tôi chưa có ý định viết đầy đủ một chân dung nhà văn Trịnh Thanh Phong vì ông còn viết nữa, nhưng ông gắn liền với hình ảnh một người kể chuyện làng quê đầy duyên, mang “ma lực” từ tiểu thuyết Ma làng - nơi hiện thực và hư ảo hòa trộn, để phơi bày những bí ẩn, mâu thuẫn, và cả bóng tối của làng quê Việt Nam. Tôi chỉ nhấn mạnh những gì ở đời văn của ông mà tôi thích. Thì vẫn là Ma làng với lối viết giản dị, đậm chất khẩu ngữ, gợi lại không khí “chuyện kể bên bếp lửa”, dễ lôi cuốn tôi. Ma Làng vừa là một tác phẩm nổi tiếng, vừa trở thành một khái niệm gắn với tên tuổi Trịnh Thanh Phong.

Ông khai thác niềm tin và sự sợ hãi của người dân quê đối với ma quỷ, hồn vía, điềm gở. Trong thế giới ấy, cái thực và cái ảo, cái sống và cái chết, chuyện người và chuyện ma không tách bạch rạch ròi, mà hòa quyện, xen cài là tôi thích.

Có người nói phim Ma làng hay hơn tiểu thuyết. Tôi không nghĩ thế. Không có tiểu thuyết ấy làm sao có sườn để làm phim. Nhưng nhờ phim, cái tên Trịnh Thanh Phong được nhiều khán giả ngoài giới văn học biết đến. Điều đó là tất nhiên.

Vị trí của Trịnh Thanh Phong được đưa lên tầm xứng đáng. Ông được đánh giá là một trong những nhà văn đưa văn học làng quê hòa nhập với dòng chảy văn hóa đại chúng, bởi từ sách đi ra phim ảnh, tác phẩm của ông đã chạm tới đông đảo công chúng vì ông đã tạo dựng một phong cách riêng, góp phần làm phong phú diện mạo văn xuôi Việt Nam đương đại. Với ông, theo thời gian, sau Ma làng còn nhiều đứa con lục tục ra đời: Dưới chân núi Bắc Quan, Lời ru ban mai, Rừng lân tinh, Sống sót, Ông mãnh về làng (kế tiếp Ma làng)... Những đứa con văn chương, ông cứ đẻ sồn sồn 2 năm 1 đứa, có năm đẻ sinh đôi. Tôi thật tự hào cho ông. Người ta lấy tên tác phẩm đặt cho tên người đấy là một niềm tự hào của người viết. Nhưng rồi bất ngờ hơn, tôi lên Tuyên ông tặng tôi tác phẩm tiểu thuyết Đất cánh đồng Chum. Vui hơn, cuối năm đó, Đất cánh đồng Chum được giải thưởng Sông Mekong, giải thưởng quốc tế. Thật là một niềm tự hào lớn. Tôi nhận ra một Trịnh tiên sinh tên tuổi vượt qua biên giới Việt Nam. Sách xếp đầy nhà. Văn chương nết đất...

Chỉ cần một Ma làng, Trịnh tiên sinh đã nổi tiếng văn chương cần gì một Đất cánh đồng Chum. Nhưng Đất cánh đồng Chum lại là tầm quốc tế. Ma làng đấy là đất nội địa. Tôi vui hơn vì Đất cánh đồng Chum đã dịch ra tiếng Lào.

Tôi lên Tuyên chơi. Ông cười hì hì. Coi như mọi thứ văn chương làm ra để chơi. Mà chơi sang.

      Nhưng từ Trịnh Thanh Phong văn chương, tôi nghiệm ra một điều, thời bây giờ, dù là tiểu thuyết, cũng không nên viết quá dài. Cái cần là sâu sắc. Ma làng chỉ 190 trang khổ 13x19, các cuốn sau, Ông mãnh về làng 354 trang, Sống sót 314 trang… nhưng không vượt được Ma làng.

Hồ Linh Đàm - Hà Nội, mùa thu 2025

Lê Tuấn Lộc

Nguôn theo BaoVannghe