/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

THƠ VĂN BẠN BÈ

Suy nghĩ về giải thưởng truyện ngắn Báo Văn Nghệ 2022-2024

Với Ban tổ chức báo Văn nghệ, tôi cho rằng khi tiêu chí cuộc thi đã rõ ràng, sự chuẩn bị và chọn lọc kĩ lưỡng với 2 vòng sơ và chung khảo

Suy nghĩ về giải thưởng truyện ngắn Báo Văn Nghệ 2022-2024

Kim Nhạn

.

       Giải thưởng Truyện ngắn Báo Văn nghệ 2022-2024 khép lại không chỉ bằng danh sách các tác phẩm đoạt giải mà còn bằng những cuộc đối thoại sôi nổi trong giới cầm bút và công chúng. Bài viết này góp thêm một góc nhìn, đối chiếu lại những ý kiến đa chiều và đặt ra câu hỏi: làm thế nào để giải thưởng văn học tiếp tục phát huy vai trò phát hiện, nuôi dưỡng tài năng mới.

1. Khoảng trống của tác phẩm xuất sắc

Vào ngày 24/7/2025, báo Văn nghệ tổ chức lễ trao giải cuộc thi Truyện ngắn Báo Văn nghệ năm 2022 - 2024. Đây là hoạt động nằm trong truyền thống 80 năm của tờ báo nhằm phát hiện và bồi dưỡng những tài năng mới cho văn học nước nhà. Cuộc thi truyện ngắn lần này được phát động từ ngày 6/9/2022 trong bối cảnh phức tạp của thế giới và Việt Nam: khủng hoảng hậu Covid-19, sự xuất hiện ngày càng phổ biến của trí tuệ nhân tạo cùng nhiều sự đổi thay mạnh mẽ của đất nước. Trải qua hai năm phát động, tính đến ngày 6/9/2024, ban tổ chức nhận được xấp xỉ 2700 tác phẩm, trong đó 253 tác phẩm được chọn đăng trên báo Văn nghệ. Qua hai vòng sơ khảo và chung khảo, với sự chọn lọc kĩ càng và trách nhiệm của ban giám khảo, vốn đều là các nhà văn uy tín, Ban tổ chức đã chọn ra 10 truyện ngắn đạt giải (không có giải Nhất), trong đó, hai giải Nhì được trao cho Bờ sông lặng sóng của Vũ Ngọc Thư và Trăm ngàn của Ngô Tú Ngân; hai giải Ba dành cho Nhi thư của Hà Đình Cẩn và Miền xa ngái của Phạm Xuân Hùng; sáu giải Tư cho các tác phẩm: Núi vỡ của Lữ Hồng, Cây gạo ở chợ chiều của Cầm Thị Đào, Tiếng vọng của Vương Đình Khang, Đất ao của Đào Quốc Vịnh, Thư viện người của Lê Văn Thân và Rượu hoa mất trí của Như Bình.

Theo đánh giá chung của nhà văn Nguyễn Bình Phương, Chủ tịch Hội đồng Giám khảo cuộc thi, giải thưởng “thể hiện đúng mặt bằng hiện tại của thể loại truyện ngắn”, các tác phẩm đạt giải đã “khắc họa nhiều khía cạnh của đời sống xã hội, từ hiện tượng phổ quát cho tới những biến chuyển thầm kín, riêng tư, từ vấn đề của cả cộng đồng cho tới ứng xử của mỗi cá nhân. Bằng sự nhạy bén, sắc sảo và hết sức trách nhiệm của mình, các tác giả đã tập trung mổ xẻ về đời sống hiện tại với những hoàn cảnh, những vấn đề hoặc trở thành niềm tự hào hoặc đang chuyến biển thành nhức nhối trong xã hội. Không ít tác phẩm đề cập tới sự nghiền ngẫm, chất vấn các vết thương đã thuộc về lịch sử nhưng chưa được chữa trị triệt để.”

Người đọc có thể cảm nhận những khía cạnh rất đa dạng của đời sống con người, từ nỗi đau sâu kín của thân phận con người sau chiến tranh (Bờ sông lặng sóng của Vũ Ngọc Thư, Tiếng vọng của Vương Đình Khang) cho đến nỗi buồn nhân thế của đời sống đương đại (Thư viện người của Lê Văn Thân), từ những vấn nạn nhức nhối của xã hội, chẳng hạn, tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhằm trục lợi được phản ánh sinh động trong Đất ao của Đào Quốc Vịnh tới cuộc mưu sinh khắc nghiệt của những người phải tìm đến đào vàng để kiếm vận may trong Miền xa ngái của Phạm Xuân Hùng, từ nỗ lực tái dựng chân dung các danh nhân lịch sử trong quá khứ trong Nhi thư của Hà Đình Cẩn cho đến những khám phá phận người ở những vùng xa xôi: Trăm ngàn của Ngô Tú Ngân, Miền xa ngái của Phạm Xuân Hùng, Núi vỡ của Lữ Hồng, Cây gạo ở chợ chiều của Cầm Thị Đào, Rượu hoa mất trí của Như Bình… Như chủ khảo cuộc thi nhận định: “Qua những phản ánh, mổ xẻ đầy tinh tế này, chúng ta có thể rút ra bài học sâu sắc về số phận, thân phận và nhân phẩm cũng như tình thế của con người trong đời sống xã hội hôm nay”.

Ở khía cạnh nghệ thuật thể hiện, các tác phẩm cho thấy sự đa dạng trong bút pháp và nỗ lực đào sâu vào tâm lí nhân vật. Theo nhà văn Nguyễn Bình Phương, “Bên cạnh những tác giả, tác phẩm kiên định với lối viết đậm chất truyền thống, có không ít những tác giả, tác phẩm thể hiện rõ nét tinh thần tìm tòi, khám phá cách thể hiện mới, từ góc tiếp cận tới giọng điệu, từ bút pháp cho tới bố cục”.

Trong đó, truyện ngắn Tiếng vọng cho thấy nỗ lực cách tân hơn cả trong việc xếp chồng các tầng kí ức, sự đan cài điểm nhìn trần thuật, kĩ thuật mảnh ghép nhằm tạo nên sự thú vị cho người đọc.

Một khía cạnh đáng lưu ý của cuộc thi lần này là sự tham gia rộng rãi của cây bút trẻ, như tiết lộ của các thành viên hội đồng giám khảo: “cuộc thi truyện ngắn 2022 - 2024 đã thành công ở chỗ phát hiện và khuyến khích nhiều cây bút trẻ”. Điều này nằm trong quy luật tất yếu của mỗi nền văn học, khi những gương mặt trẻ sẽ là lực lượng kế cận và là chủ nhân của nền văn học trong tương lai. Việc phát hiện, nâng đỡ và khuyến khích tài năng trẻ là một động thái mang ý nghĩa chuẩn bị cho sự phát triển của văn đàn, cũng là một trong những mục đích tốt đẹp cuộc thi văn chương lần này.

Như vậy, xét trên tổng thể, cuộc thi truyện ngắn đã đạt được thành công trong việc tìm ra 10 tác phẩm hay nhất từ khoảng 2700 truyện ngắn, tạo sân chơi và phát hiện những nhân tố mới, nhất là khích lệ những người trẻ cầm bút. Việc thiếu vắng giải nhất của cuộc thi nói lên rất nhiều điều. Trước hết, nó cho thấy sự thiếu vắng của một tác phẩm xuất sắc hay một nhân tố đột biến, hé lộ chính mặt bằng của nền văn học đương đại, khi văn chương chưa có sự đột khởi của lực lượng sáng tác tài năng có thể đem đến sinh khí mới cho văn đàn. Thứ hai, việc để ngỏ giải Nhất thể hiện “yêu cầu cao từ ban giám khảo”, theo chia sẻ của nhà văn Nguyễn Bình Phương, đó cũng là “lời nhắc để các tác giả nỗ lực hoàn thiện hơn, nhằm đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật truyện ngắn”. Điều này cho thấy tầm nhìn rộng mở và tinh thần làm việc nghiêm túc, trách nhiệm của Ban tổ chức khi họ ý thức được độ chênh giữa thực tế tác phẩm dự thi và yêu cầu cao của giải thưởng. Đây cũng là trăn trở của nhà văn Cao Duy Sơn, thành viên Ban Chung khảo: “chất lượng văn chương năm nay chưa có sự đột biến sâu sắc”. Chính bởi vậy, dù các hạng mục đã được trao, cuộc thi vẫn để lại nhiều kì vọng: “Sẽ tốt hơn nếu người viết mang đến cho bạn đọc một điều gì đó khác lạ hoặc khiến cho họ nghĩ đến một điều gì đó và tiếp tục trong cuộc sống hiện nay và để có những điều mới hơn trong đời sống văn học. Hầu hết tác giả viết theo lối truyền thống, còn thiếu vắng đột biến, cách tân hoặc có thể có nhưng chưa đẩy tới” - nhà văn Cao Duy Sơn bày tỏ. Một khoảng trống còn để ngỏ cho tác phẩm xuất sắc sẽ được tiếp tục lấp đầy cho những mùa thi sau.

2. Dư luận trái chiều liên quan đến tác phẩm đạt giải

Được chờ đợi suốt hai năm trong khoảng 2700 tác phẩm, giải thưởng truyện ngắn lần này thu hút đông đảo sự chú ý của công chúng. Trong đó, dù có mặt bằng khá đều nhau, dư luận hầu như chỉ xoay quanh tác phẩm Trăm ngàn của Ngô Tú Ngân, một cây bút trẻ xuất thân từ miền Tây, tốt nghiệp Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, hiện đang làm việc tại một tập đoàn đa quốc gia.

Trăm ngàn là câu chuyện kể về hành trình tìm mẹ của nhân vật cùng tên, một người đàn ông ngay từ khi sinh ra đã là đứa trẻ vô thừa nhận. Vì sinh ra khi cha mẹ cậu chưa có hôn thú và bị cấm cản vì không môn đăng hậu đối, ngay từ khi còn đỏ hỏn, cậu bị bà ngoại bỏ rơi, bế trả cho nhà bà nội và yêu cầu nộp tiền phạt vạ một trăm ngàn đồng. Để khắc ghi mối hận, bà nội đặt tên cháu là Trăm Ngàn. Từ đó, Trăm Ngàn lớn lên trong sự ghẻ lạnh, hờ hững của bà nội và cả cả bố Hai Bình. Bù lại, cậu nhận được tình cảm yêu thương của Diễm, một cô bé nghèo nhưng tốt bụng, dạy cậu học chữ. Cóp nhóp tiền để mong có ngày dạm hỏi Diễm nhưng cuối cùng, cậu bị Tài – con trai của Hai Bình cuỗm mất. Tức tối, cậu đánh Tài, bị bà Hội đuổi đi. Đúng lúc không còn cơ hội đến với Diễm, cậu được bà Ba, một người giúp việc tốt bụng của gia đình tiết lộ thân phận của cậu. Trăm Ngàn ngỡ ngàng khi biết bà Hội và cậu Hai Bình chính là bà nội, là cha mình, những người mà bấy lâu nay đối đãi quá ư ác nghiệt với nó. Quá chua xót cho số phận của mình, không còn nơi bấu víu, cậu quyết định gia nhập gánh hát của ông Bầu, sống trong vòng tay đùm bọc của những người tứ cố vô thân nghèo khổ, phiêu linh. Vì hình dáng xấu xí, Trăm Ngàn chỉ được đóng những vai phụ, sống một đời lay lắt, nay đó mai đây cùng gánh hát. Trong suốt những ngày lênh đênh ấy, đi tới đâu Trăm Ngàn cũng cố dò la tung tích mẹ. Một lần, sau khi biết mình bị ung thư, không sống được bao lâu nữa, Trăm Ngàn thể hiện mong muốn được trở về quê. Gánh hát hết lòng chăm sóc, thể theo nguyện vọng và đưa Trăm Ngàn về quê. Trên đường về, Trăm Ngàn mơ thấy mình được gặp mẹ, được sống trong vòng tay bao bọc của mẹ. Sáng hôm sau, đoàn thấy Trăm Ngàn đã ra đi, trên môi thoáng nét cười thanh thản trên chiếc thuyền đưa ông đến bến cuộc đời.

Dư luận về truyện ngắn Trăm ngàn của Ngô Tú Ngân được khởi lên ngay sau khi giải thưởng được công bố ngày 24/7. Nhà phê bình Hà Thanh Vân, trong các bài viết đăng trên trang cá nhân facebook của mình cho rằng Trăm ngàn là “một phiên bản lỗi khi viết về miền Tây Nam Bộ theo kiểu Nguyễn Ngọc Tư” do “ngôn từ kiểu lẩu thập cẩm quá mức pha trộn Nam – Bắc dù bối cảnh là miền Tây” và tác giả “không am hiểu văn hóa miền Tây”. Trong khi đó, một tác giả có truyện ngắn dự thi phản đối giải Nhì dành cho truyện Trăm ngàn do chất lượng tác phẩm cũng như cách tổ chức giải thưởng của báo Văn nghệ. Còn theo đạo diễn Lê Hoàng, đây là “một truyện ngắn dở, thậm chí vô cùng dở, nó không hề có tư tưởng”,…. Các ý kiến này nhìn chung đều đánh giá truyện Trăm ngàn không xứng đáng với giải thưởng cao nhất của báo Văn nghệ.

Ở phía ngược lại, nhà văn Uông Triều phản biện lại ý kiến của nhà phê bình Hà Thanh Vân, cho rằng “văn chương cho phép sự pha trộn ngôn ngữ nhằm phản ánh bản thể di động của nhân vật”; “việc lối kể truyện gợi nhớ đến Nguyễn Ngọc Tư không đồng nghĩa với việc sao chép. Mọi nhà văn đều chịu ảnh hưởng, vấn đề là họ có kể được câu chuyện của riêng mình hay không. Phê bình văn học cần tạo ra đối thoại học thuật và mở ra hiểu biết, không phải là công cụ để áp đặt chuẩn chính tả, vùng miền, hay thái độ cực đoan về bản sắc”. Nhà báo Lê Thọ Bình cho biết Trăm ngàn “không chỉ là một câu chuyện “miền Tây” mà là “vấn đề nhân sinh hậu hiện đại, như nhà lý luận văn học Zygmunt Bauman đã gọi là “tình trạng lỏng lẻo” (liquid modernity), nơi mà ranh giới giữa các bản sắc, địa phương, giới tính, đạo đức... đều trở nên bất định”. Trong khi đó, nhà thơ Hương Nhu nhận định cấu trúc đứt đoạn của tác phẩm “không đơn thuần là kỹ thuật kể chuyện” mà là “cách thức mà văn chương hậu hiện đại sử dụng để phản ánh một thế giới vốn đã tan vỡ, nơi con người chỉ còn có thể tìm lại chính mình qua những mảnh rời rạc ký ức”…. Tiếp tục phản bác các ý kiến này, nhà phê bình Hà Thanh Vân cho rằng “Tác phẩm “Trăm Ngàn” của Ngô Tú Ngân không chỉ không hiện sinh, không hậu hiện đại, mà còn bộc lộ rõ những yếu tố “giả văn hóa”, lệch chuẩn vùng miền và thiểu tri văn hóa Nam Bộ. Đó là kiểu viết nhập nhằng giữa chủ nghĩa nhân đạo rập khuôn, cốt truyện cảm thương lộ liễu và thái độ hời hợt, nông cạn, kém hiểu biết với vốn văn hóa bản địa”. Sự lan truyền của facebook khiến cho các ý kiến trái chiều liên tục nở rộ, tạo nên không khí căng thẳng trong diễn đàn văn học.

Trước đó, nhà văn Nguyễn Bình Phương, với tư cách Chủ tịch hội đồng giám khảo của cuộc thi trong bài tổng kết đọc tại lễ trao giải đã cho rằng “trong nghệ thuật, cùng một tác phẩm mỗi người lại có sự tiếp nhận, thẩm thấu, đồng cảm khác nhau dẫn tới các đánh giá khác nhau”. Theo bài báo của Thiên Điểu, “ông khẳng định ở những cuộc thi như cuộc thi truyện ngắn này, ngoài chất lượng là cơ sở đặt lên hàng đầu, thì việc đoạt giải còn phụ thuộc nhiều yếu tố phụ khác”: “tính cân bằng giữa giá trị truyền thống với giá trị sáng tạo mới, giữa giá trị của vẻ đẹp văn chương thuần túy với giá trị giáo dục nhân tính, trong đó có cả tính cân bằng giữa các vùng chủ đề với nhau”, “yếu tố cơ duyên” khi tác phẩm “may mắn chiếm được sự đồng cảm trong tiếp nhận, thẩm thấu của đa số thành viên tại một hội đồng cụ thể”. Ông nhấn mạnh rằng “Nhắc điều ấy để cùng nhau thấy rằng những tác phẩm chưa đoạt giải trong cuộc thi này không hẳn là chất lượng nghệ thuật thấp hơn, yếu hơn, và các tác phẩm đoạt giải chưa hẳn đã xuất sắc vượt trội hẳn lên hoặc đã hoàn mỹ đến mức tuyệt đối”.

Nhìn kĩ vào những lí lẽ mà dư luận trái chiều đưa ra để phản bác và bênh vực giải thưởng cho truyện ngắn Trăm ngàn, tôi nhận thấy các ý kiến hoặc tập trung vào tiểu tiết (chẳng hạn, việc sử dụng ngôn ngữ pha trộn Bắc – Nam), hoặc vào yếu tố ngoài văn bản (chủ nghĩa hiện sinh, hậu hiện đại),… để đánh giá tác phẩm. Về việc sử dụng ngôn ngữ và phông văn hóa miền Tây, tôi cho rằng, trong bối cảnh di cư và giao lưu văn hóa, rất khó để có thể truy cầu một thứ ngôn ngữ thuần khiết của một vùng đất. Bởi ngôn ngữ, và rộng hơn là văn hóa luôn có sự biến chuyển theo thời gian và không gian. Do đó, trong quan điểm của tôi, các nhân vật trong câu chuyện (đều có quá trình di cư) hay bản thân người kể chuyện thể hiện sự phối trộn ngôn ngữ miền Tây và ngôn ngữ Bắc bộ sẽ phản ánh chính thực tế giao thoa văn hóa đó. Người đọc nên nhìn ra một thực tế giao thoa đó thay vì cho rằng lẽ ra người miền Tây phải nói như thế này, hay người miền Bắc thì phải nói như thế kia. Nếu như người đọc yêu cầu một thứ ngôn ngữ thuần chất không pha tạp khi đề cập đến một địa phương nào đó thì đó là một việc bất khả, dễ rơi vào bản chất luận –điều nên tránh khi thưởng thức nghệ thuật cũng như ứng xử nhân sinh.

Trong khi đó, nhiều người đọc cho rằng tác phẩm thể hiện một nhân sinh quan hiện sinh, hậu hiện đại khi sáng tác; và ở một chiều khác, người phản bác cũng giở lí thuyết về hiện sinh, hậu hiện đại ra để cho rằng tác phẩm không có dấu hiệu của hiện sinh hay hậu hiện đại. Tôi cho rằng đây là việc “đo ni đóng giày”, dùng khung lí thuyết với các thang đo cứng nhắc và bị cố định hóa để ốp vào tác phẩm. Điều này trái ngược với hoạt động sáng tạo của nhà văn. Trên thực tế, nhà văn có thể trau dồi lí thuyết và các trường phái sáng tác để nâng cao kĩ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc sáng tạo lại không nhằm mô phỏng, minh họa cho lí thuyết hay trường phái văn học. Nhà văn khi viết tác phẩm đều mong muốn tạo dựng trọn vẹn một thế giới nghệ thuật để từ đó thể hiện sự nghiền ngẫm về đời sống, về con người. Trong đó, việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, cùng với đó là hệ thống các nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ,… đóng vai trò quyết định đến thành công của tác phẩm. Theo đó, Trăm ngàn của Ngô Tú Ngân đã tạo dựng được bối cảnh miền Tây với những phận người chìm nổi, bấp bênh. Trong thế giới đó, hình tượng nhân vật Trăm Ngàn hiện diện như một nhân vật dưới đáy, một người vô thừa nhận, một cái bóng lẻ loi, thầm lặng, suốt đời kiếm tìm sự công nhận của người thân, của đồng nghiệp và không ngừng khao khát tình yêu thương trong suốt cuộc đời. Từ bất hạnh của Trăm Ngàn, tác giả phơi bày những tín điều cũ kĩ (chẳng hạn: môn đăng hậu đối, lòng sĩ diện, sự phân biệt đối xử…) đã cướp đi hạnh phúc đơn sơ và làm băng hoại mối quan hệ giữa con người, ngay cả mối quan hệ tình thân. Song song với việc phản ánh những sắc lạnh của lòng người, tác phẩm vẫn sáng lên sự quan tâm và thấu hiểu lẫn nhau giữa những phận người nhỏ bé trong xã hội. Câu chuyện vì thế vẫn để lại những dư âm về tình yêu thương và lòng trắc ẩn. Tất cả những điều này chẳng phải vẫn là những điều con người muôn thuở hướng đến hay sao? Chính vì vậy, việc đặt ra những câu hỏi, chẳng hạn: “Ý nghĩa của truyện ngắn này là gì? Nó chuyển tải tư tưởng nào? Đọc cả truyện chỉ thấy một người đàn ông khổ sở đi tìm mẹ, gia nhập gánh hát rồi bệnh ung thư chết, đưa về quê nhà! Miêu tả cuộc đời khổ như vậy để đi đến vài câu “đạo lý văn hoa” cũ kỹ”” là một cách đọc vội vã, thiếu sự thấu đáo và độ lượng.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi cho rằng giải thưởng văn học là một định chế nhằm tôn vinh những tài năng, những phát hiện và những ý tưởng mới cho nền văn học. Là một giải thưởng lớn và có truyền thống lâu đời, chắc chắn, BTC đều có những tiêu chí cụ thể, rõ ràng để lựa chọn những tác phẩm hay nhất, đặc sắc nhất. Thứ nữa, thành viên Ban giám khảo đều là các nhà văn uy tín, đã thành danh, chắc chắn sẽ có những đánh giá khách quan, công tâm trên tinh thần phát hiện và nâng đỡ đối với những tác phẩm xứng đáng. Như đã dẫn ra ở trên, bản thân Chủ khảo (nhà văn Nguyễn Bình Phương) và thành viên Ban giám khảo (nhà văn Cao Duy Sơn) đều có những nhận định rất công tâm đối với mặt bằng những tác phẩm dự thi và việc để trống giải Nhất như một “yêu cầu cao từ ban giám khảo” ( lời nhà văn Nguyễn Bình Phương) để các tác giả tiếp tục hoàn thiện và mài sắc ngòi bút của mình là một minh chứng cho tình thần trách nhiệm của ban giám khảo. Trong một tình thế “hầu hết tác giả viết theo lối truyền thống, còn thiếu vắng đột biến, cách tân hoặc có thể có nhưng chưa đẩy tới” như nhà văn Cao Duy Sơn nhận định, truyện ngắn Trăm ngàn chắc chắn còn một số hạt sạn cũng như chưa thể hiện đột phá về mặt nghệ thuật là một thực tế không thể phủ nhận. Tuy nhiên so với mặt bằng chung của các truyện đạt giải, đây vẫn là câu chuyện khá trọn vẹn về mặt xây dựng nhân vật, kết cấu và tạo dựng bối cảnh. Việc trao giải Nhì dành cho một tác giả trẻ (Ngô Tú Ngân), được đứng bên cạnh và sau tác giả có nhiều kinh nghiệm về tuổi đời và tuổi nghề là Vũ Ngọc Thư [theo các thông báo chính thức trên Văn nghệ] cho thấy sự cân nhắc và tinh tế của Ban giám khảo trong việc tôn vinh đội ngũ sáng tác vừa ở khía cạnh chất lượng tác phẩm, vừa ở tính chất kế cận thế hệ.

3. Hướng đến một môi trường văn chương cởi mở, dân chủ

Sau một cuộc thi, nhất là một cuộc thi văn chương có bề dày lịch sử và uy tín được gây dựng trong suốt gần 80 năm của báo Văn nghệ, việc có nhiều ý kiến trái chiều, thậm chí phản đối một giải thưởng là một tín hiệu không gây ngạc nhiên cho những người quan sát. Trong lịch sử, đã từng có nhiều cuộc thi diễn ra với những ý kiến như vậy. Trong bối cảnh bùng nổ của mạng xã hội, dư luận trái chiều bùng nổ theo những cách thức mới mẻ với nhiều ý kiến mạnh mẽ, sự đòi hỏi gắt gao của công chúng đối với các cấp thẩm quyền trong việc trao giải của văn giới hiện nay. Những xôn xao này cho thấy không khí dân chủ, cởi mở của thời đại công nghệ thông tin, sẽ là những tập dượt cho sự trưởng thành của cả phía nhà văn, phía độc giả và người quản lí văn nghệ.

Từ những lùm xùm xung quanh giải thưởng của báo Văn nghệ lần này, tôi cho rằng mỗi tác nhân tham gia trường văn học đều cần suy ngẫm để hướng đến sự tôn trọng lẫn nhau và cùng phát triển, cụ thể:

Với người sáng tác, giải thưởng rất quan trọng nhưng hành trình viết văn còn rộng dài phía trước, đòi hỏi nhà văn không ngừng nỗ lực để mài sắc cây bút của mình. Trong hành trình đó, việc lắng nghe ý kiến trái chiều, nhất là sự góp ý của giới phê bình là nguồn tham khảo quan trọng. Một thái độ bản lĩnh khi đứng trước lời khen tiếng chê và tinh thần cầu thị sẽ giúp nhà văn mài sắc hơn nhãn quan và bản lĩnh nghề nghiệp. Vững tin ở bản thân và luôn trau dồi vốn sống, vốn đọc của mình sẽ là cách nâng cao khả năng viết và nâng cao chất lượng nghệ thuật của tác phẩm.

Với các nhà phê bình, nên nhìn nhận cuộc thi như một cơ chế để phát hiện những tài năng mới. Tác phẩm đạt giải có thể chưa toàn bích, và tác giả có thể sẽ điều chỉnh nhiều lần sau cuộc thi, nhưng giải thưởng là bước ngoặt quan trọng để tác giả đi tiếp con đường sáng tạo của mình. Do vậy, việc phê bình cần thẳng thắn, kĩ lưỡng nhưng nên được thể hiện trong tinh thần đối thoại và tôn trọng, tránh quy kết, hạ bệ người khác, nhất là đối với các nhà văn trẻ. Một lối phê bình quy chụp hay mạt sát hoặc lên mặt dạy dỗ, nhất là khi người phê bình ở vị trí quyền uy và có tầm ảnh hưởng xã hội rộng lớn sẽ tạo nên một không khí căng thẳng, thậm chí dẫn dắt những cách nhìn, cách thấy mang tính tấn công thô bạo đối với những người sáng tạo.

       Với Ban tổ chức báo Văn nghệ, tôi cho rằng khi tiêu chí cuộc thi đã rõ ràng, sự chuẩn bị và chọn lọc kĩ lưỡng với 2 vòng sơ và chung khảo, Ban tổ chức hoàn toàn có thể đưa ra những phát ngôn chính thức nhằm bạch hóa các thông tin liên quan đến giải thưởng. Những phản biện và kiến nghị của dư luận cũng chính là những đòi hỏi xã hội đối với văn giới. Việc lắng nghe các ý kiến và chuyên nghiệp hóa các khâu, sự bạch hóa các thông tin (về Ban giám khảo, về các mốc thời gian, về kết quả qua các vòng loại) chính là những bước đi cần thiết để tiến tới xây dựng hoàn bị cơ chế giải thưởng trong bối cảnh xã hội dân chủ, trong đó, người đọc và công chúng không còn thụ động tiếp nhận thông tin mà dần trở thành tác nhân tham gia vào việc hoàn thiện thể chế văn chương.

Theo Baovannghe