/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

THƠ VĂN BẠN BÈ

CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ TỔNG BẤT BẾ (VÉ) - NINH GIANG

Tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời đầu Nguyễn có 12 làng: Bất Bế, Thi Ủng, Tranh Xuyên, Tiêu Giặc, Tiêu Tương, Hiệp Lễ, Tam Tương, Lực Đáp, Nguyễn Xuyên, Lang Viên, Điều Lôi và Tranh Chử

CA DAO, TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ CỔ VỀ TỔNG BẤT BẾ (VÉ) - NINH GIANG

.

       Tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời đầu Nguyễn có 12 làng: Bất Bế, Thi Ủng, Tranh Xuyên, Tiêu Giặc, Tiêu Tương, Hiệp Lễ, Tam Tương, Lực Đáp, Nguyễn Xuyên, Lang Viên, Điều Lôi và Tranh Chử bên hữu ngạn sông Luộc. Sau đây là một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về mảnh đất Bất Bế (Vé) này:

.

1-

Phủ Thượng thành Bình

Phủ Hạ thành Ninh

Hai phủ Nam – Kinh

Giữ nguyên tên cổ

 

      (Câu này ý nói vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822), thì phủ Thượng Hồng đổi thành phủ Bình Giang (平江府), có nghĩa là “vùng sông nước êm đềm”, vì phủ lỵ này nằm ở làng Vạc nên còn gọi là phủ Vạc. Còn phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang (寕江府), có nghĩa là “vùng sông nước an toàn”, vì phủ lỵ đóng ở tổng Bất Bế, tên Nôm là Vé, nên còn gọi là phủ Vé. Chứ ở đây hai từ Bình Giang hay Ninh Giang không liên quan gì tới sông “Bình” hay sông “Ninh” nào cả. Còn phủ Nam Sách và phủ Kinh Môn vẫn giữ nguyên tên cổ. Rồi vào năm 1837, thì bốn huyện là Nghi Dương, An Dương, Kim Thành và An Lão được tách từ phủ Kinh Môn để thành lập phủ Kiến Thụy. Sau này tất cả 5 phủ trên trở thành đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng, từ 2025 thuộc thành phố Hải Phòng)

 

2-

Chơi với dân làng Chanh

Chẳng còn bát sành mà ăn.

 

      (Làng Tranh Xuyên, tên Nôm là Chanh, xưa thuộc tổng Bất Bế (Vé), huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã Tranh Xuyên, huyện Ninh Giang. Thời cổ xưa còn một giáp bên hữu ngạn sông Luộc nữa)

 

3-

Tham ăn vào Chiềng

Tham tiền vào Bói

Chết đói vào Thì Ung

     

       (Làng Trịnh Xuyên, tên Nôm là Chiềng, xưa thuộc tổng Đỗ Xá (Đọ) cùng huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã Nghĩa An, huyện Ninh Giang 3 làng trên đều thuộc huyện Ninh Giang. Làng Bối Giang, tên Nôm là Bói, xưa thuộc tổng Đông Cao, huyện Vĩnh Lại, sau này phát triển thành Bắc Bối, Nam Bối, Đông Bối và Tây Bối đầu thế kỷ XX thuộc tổng Đông Bối hay gọi tổng Bói, thời nay thuộc xã Tân Hương, huyện Ninh Giang. Làng Thì Ung, thời Tự Đức (1848) đổi thành Hòa Ung, xưa thuộc tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã An Đức huyện Ninh Giang)

 

4-

Về chợ

Ghé mua thịt trâu

 

      (Làng Bất Bế, tên Nôm là Vé, xưa thuộc tổng Bất Bế (Vé), huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang. Từ thập niên 60 thế kỷ XX trở về xa xưa tại tổng Vé có chợ kinh doanh trâu bò ở khu vực bên tả ngạn sông Luộc, do vậy chợ Vé có thịt trâu khá ngon, thời nay có món giò trâu ở huyện này khá nổi tiếng)

 

5-

Tơ tằm làng Vé

Trâu nghé làng Chanh

Cam sành làng Hóp

 

       (Làng Bất Bế, tên Nôm là Vé, xưa thuộc tổng Bất Bế (Vé), huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, xưa có nghề dệt vải khá nổi tiếng. Làng Tranh Xuyên, tên Nôm là Chanh, xưa thuộc tổng Bất Bế (Vé), huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã Tranh Xuyên, huyện Ninh Giang, xưa chợ bán trâu bò ở gọc tả ngạn sông Luộc và hữu ngạn sông Hà Lộ, gần bến đò Hới. Làng Lực Đáp, tên Nôm là Hóp, xưa thuộc tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại có giống cam rất ngon, thời nay thuộc xã Hiệp Lực, huyện Ninh Giang)

 

6-

Nghề mộc Bồ Dương

Cam đường Thì Ung

Cá đồng Hán Triều

 

       (Làng Bồ Dương, xưa thuộc tổng Bồ Dương, huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang có nghề mộc làm đình chùa khá nổi tiếng. Hầu hết các đình chùa ở phủ Hạ Hồng đều do thôn dân làng Bồ Dương thi công. Làng Thì Ung, thời Tự Đức (1848) đổi thành Hòa Ung, xưa thuộc tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại, thời nay thuộc xã An Đức huyện Ninh Giang. Làng Hán Triền, xưa thuộc tổng Văn Hội, từ đầu thế kỷ XX là Hán Lý thuộc tổng Văn Hội là vũng trũng thấp lại ven sông Luộc, nên có nhiều cá đồng và cá sông)

 

7-

Thứ nhất Ngã Ba Tranh

Thứ nhì kênh Lục Vị

 

       (Đây là hai vị trí linh thiêng thờ Thần sông. Thứ nhất ở ngã ba Tranh Xuyên thuộc thực địa làng Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương, thời nay thuộc thị xã Ninh Giang, Hải Dương, từ tháng 07 năm 2025 thì toàn bộ thực địa thành phố Hải Phòng. Thứ hai là kênh Lục Vị ở Lạng Sơn, tức đền thờ Quan lớn Tuần Tranh ở sông Kỳ Cùng thuộc thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn ngày nay)

     

8-

Minh Không tổng Thói

Văn Miếu tổng Vé

 

      (Đền thờ Thiền sư Minh Không ở làng Hán Triền (thời Thiệu Trị đổi là Hán Lý) ở tổng Văn Hội, mà tên Nôm của Văn Hội là Thói, xưa thuộc huyện Vĩnh Lại. Thiền sư này họ Nguyễn, người Ninh Bình từ nhỏ đã kết bạn với Từ Đạo Hạnh, đến thụ giới ở chùa Vân Mộng. Về sau vua Lý Thần Tông bị bệnh, thiền sư chữa khỏi, được vua phong làm Quốc sư. Còn Văn Miếu huyện Vĩnh Lại được đặt ở làng Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, mà tên Nôm của Bất Bế là Vé, hàng năm xuân thu nhị kỳ toàn huyện hội tế. Văn Miếu và đền thờ Minh Không và đền thờ thần sông Tranh (từ 1890 là sông Hóa) được triều đình nhà Nguyễn ghi vào quốc sử, tương đương với di tích cấp quốc gia thời nay)

 

9-

Loa đồng hỏi nước sông Tranh

Long đao cứu nước, anh hùng là ai?

Sông Tranh đáp tiếng trả lời

Có Quan Đệ Ngũ, chính người Ninh Giang

 

10-

Bao giờ lấp ngã ba Tranh

Để ta gánh đá xây thành Cổ Loa.

 

      (Ngã ba Tranh Xuyên, làng Tranh Xuyên, tên Nôm là Chanh, xưa thuộc tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại, nơi sông Hóa (trước 1890 là sông Tranh) tách ra từ sông Luộc (trước 1890 là sông Lục), tạo thành ngã ba tiếp giáp giữa Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình. Sông Luộc trước năm 1285 chỉ đến ngã ba Tranh, sau đó Tướng quân Trần Hưng Đạo đã đề đạt với vua Trần Nhân Tông và cho đào đoạn từ ngã ba Tranh tới ngã ba Hải với chiều dài chừng hơn 3 dặm và từ đó trở đi hệ thống sông Nhị (sau gọi là sông Hồng) và sông Hàm (sau là sông Thái Bình). Ở đó đến thời Nguyễn có đền Tranh (huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) thờ Quan Lớn Tuần Tranh rất linh thiêng. Thời nay có tới 3 đền Tranh mọc lên ở khu vực này?)

 

11-

Ai về qua bến sông Tranh

Nhớ người tráng sỹ tài danh tuyệt vời

Dẫu rằng nước chảy hoa trôi

Sông Tranh dù cạn ơn người còn ghi

 

       (Theo cách đặt tên truyền thống của ông cha ta từ thời Đồng Khánh trở về trước, thì tên sông ngòi thường lấy địa danh phía thượng lưu làm tên cho sông. Còn Tranh Xuyên (琤川), tức dòng nước (sông nhỏ) mang tên Tranh là khúc sông từ ngã 3 Tranh tới tổng Tô Xuyên (phía Vĩnh Bảo là xã Tiền Phong thời nay). Hay tại sách “Đồng Khánh địa dư chí” hay bản đồ phủ Ninh Giang hay huyện Vĩnh Lại thời Đồng Khánh (1886) đều ghi. Từ thời Pháp thuộc (1890 - 1945) thì việc đặt tên cho sông làm ngược lại thời phong kiến, tức sông Hóa lấy từ bến Hóa ở khu vực tổng Đông Am, huyện Vĩnh Bảo làm tên cho sông, tức sông Hóa bằng sông Tranh và sông Tô cổ xưa cộng lại. Còn tại sao có sách ghi lúc là Tranh, lúc là Chanh vì tên Nôm của Tranh Xuyên là Chanh và tại nước ta có 6 sông mang tên Tranh (Chanh). Trong đó nhiều người viết về đền Tranh đều ghi chưa chính xác sông Tranh là khúc sông do quân dân nhà Trần đào năm 1285 có chừng 3 dặm (1.5 cây số) từ ngã ba Tranh đến ngã ba Hải)

 

12-

Cụ Hới là ông nội bác Chanh

 

       (Câu này nói về hai bến đò là Hới và Chanh. Bến đò làng Hà Hải, tên Nôm là Hới, xưa thuộc tổng Hà Lộ, huyện Tứ Kỳ, ranh giới giữa huyện Ninh Giang và Tứ Kỳ thời nay. Đoạn sông từ ngã ba Chanh (Tranh) đến ngã ba Hải được quân dân nhà Trần đào vào năm 1285, do vậy đò Hới ra đời vào khoảng thời gian đó. Còn bến đò Chanh (Tranh) có từ sau 1909 khi sông Chanh Dương ở huyện Vĩnh Bảo do Tổng đốc Đào Trọng Kỳ thiết kế và chỉ đạo thi công. Theo bản đồ tỉnh Hải Dương năm 1909, thì khúc trên của sông Chanh Dương chưa hoàn thành. Con sông nối tiếp sông Lục (sau 1890 là Luộc, thời Pháp thuộc là kênh Tre) làm ranh giới cho huyện Vĩnh Bảo và tỉnh Thái Bình là Tranh Xuyên, tức sông nhỏ mang tên Tranh, nhưng làng này tên Nôm là Chanh, nên gọi là Tranh hay Chanh đều chấp nhận được và từ năm 1890 trở đi mang tên mới là sông Hóa. Trong đó một số tác giả địa phương ở Hải Dương lại cho rằng sông Tranh là khúc từ ngã ba Tranh đến ngã ba Hải với chừng 1.5 cây số là chưa có căn cứ)

 

13-

Chợ Vé

Không phải Bé

Mà là Lớn

 

       (Tổng Bất Bế, tên Nôm là Vé, từ năm Minh Mạng thứ 3 (1822), thì phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang và sau đó huyện lỵ đóng tại tổng Vé, nên ngoài tên phủ Ninh Giang (gồm 4 huyện Vĩnh Lại, Vĩnh Bảo, Tứ Kỳ và Gia Lộc) ra, gọi tắt là phủ Vé và chợ Vé là chợ phủ.

 

14-

Khoa bảng làng Bùi

Ăn chơi làng Bói

Khéo nói Lang Viên

 

       (Làng Xuân Trì, tên Nôm là Bùi, xưa thuộc tổng Văn Hội, từ đầu thế kỷ XX thuộc tổng Đỗ Xá (Đọ), huyện Vĩnh Lại, thời cách mạng thuộc xã Hoàng Hanh, huyện Ninh Giang có khá nhiều khoa bảng. Làng Bối Giang, tên Nôm là Bói, xưa thuộc tổng Đông Cao, huyện Vĩnh Lại, sau này phát triển thành Bắc Bối, Nam Bối, Đông Bối và Tây Bối đầu thế kỷ XX thuộc tổng Đông Bối hay gọi tổng Bói, thời nay thuộc xã Tân Hương, huyện Ninh Giang rất khéo léo ở nết ăn. Còn nói năng thì làng Lang Viên, xưa thuộc tổng Bất Bế rất khéo và ngày nay thuộc xã Hồng Du, huyện Ninh Giang)

 

15-

Muốn ăn cơm trắng cá khoai

Về Ninh Giang gói bánh gai cùng mình

Muốn ăn cơm trắng cá chình

Thì về quê mình gói bánh lá gai?

 

       (Cái tên Ninh Giang có từ đầu thế kỷ XIX, còn việc sản xuất bánh gai (nguyên liệu chính là lá gai) có từ bao giờ thì chưa ai rõ. Đây là một đặc sản của huyện Ninh Giang, mà lỵ sở ở tổng Vé, nên mới gọi là phủ Vé)

.

(Còn nữa)

 

NGỌC TÔ (Sưu tầm)