VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
THƠ VĂN BẠN BÈ
CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN THỦY NGUYÊN
Huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, vào thời Đồng Khánh (1886 - 1888) vì kiêng húy đổi là Thủy NguyênCA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN THỦY NGUYÊN - HẢI PHÒNG
.
Huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, vào thời Đồng Khánh (1886 - 1888) vì kiêng húy đổi là Thủy Nguyên. Ngoài diện tích như ngày nay, huyện này còn một tổng nữa mang tên Song Mai bên hữu ngạn sông Kiền Bái, từ 1891 là Cấm. Từ 1900 do điều chỉnh quy hoạch của tỉnh Kiến An, tổng này được cắt về huyện An Dương. Chúng tôi xin trích một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về huyện này:
.
1-
Ông Sông, ông Bể phải nể ông Dầng (Rừng)
(Sông Bạch Đằng, mà từ Đằng theo tên Nôm là Dầng hay Rừng, vì thế sông Bạch Đằng gọi tắt là Đằng, còn gọi gọi theo tên Nôm là Dầng hay Rừng. Câu ca trên ví tất cả các sông hay cửa bể đều phải phục nể sông Bạch Đằng và cửa biển (bể) Bạch Đằng)
2-
Con ơi nhớ lấy lời cha
Gió to sóng cả, chớ qua sông Rừng (Dầng)
Đánh giặc thì đánh giữa sông
Đừng đánh chỗ cạn phải chông mà chìm
(Sông Bạch Đằng, gọi tắt là sông Đằng, còn gọi theo tên Nôm là Rừng hay Dầng, không như một số sách giải thích nước sông ở đây dâng, nên gọi là sông Dầng)
3-
…Thủy Đường hùng tráng
Nổi tiếng Tràng Kênh
Núi cao sừng sững
Đền miếu hiển vinh
Rồng cuộn Mã Yên
Hổ chầu núi Phượng
Phía sau núi biếc
Mặt trước sông Dầng…
(Trích bài minh tạc ở “Bia ghi lệnh cử dân phu coi sóc đền Thánh” dựng ngày 22 tháng 02 năm Đinh Dậu (1657) do ông Nguyễn Đình Tránh viết ở bia có kích thước nhỏ hơn. Còn bia có kích thước lớn hơn do xã trưởng Nguyễn Hữu Khách tái soạn tả (tức chép lại) vào năm Nhâm Dần. Qua bài minh ta thấy viết về vị trí của miếu Hoàng Tôn, thờ các vương tôn công tử cháu vua Trần vị thứ nhất (tức Trần Cảnh). Trong hai bia đá cổ này không nhắc tới cá nhân vị tướng quân Quốc Bảo nào cả và khẳng định rằng đây là miếu (sau này gọi đền) thờ Hoàng Tôn, không phải miếu thờ cá nhân. Còn sông Bạch Đằng hay gọi là sông Đằng, tên Nôm của từ này là Dầng hay Rừng, nên mới gọi là sông Dầng. Trong đó trang 41 “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” lại giải nghĩa từ Dầng như sau: “Dầng có thể có nghĩa dâng lên, lên cao” là chưa chính xác, vì bất cứ sông nào ở giáp biển đều bị triều cường hay nước rặc. Hay Mã Yên là núi Yên Ngựa, núi Phượng viết tắt của Phượng Hoàng)
4-
Trăm cái tội
Không bằng lỗ lội làng Quỳ
(Làng Quỳ Khê, gọi tắt là Quỳ, xưa thuộc tổng Trúc Động, huyện Thủy Đường, thời cách mạng thuộc xã Liên Khê huyện Thủy Nguyên. Vùng đất này từ xa xưa đã là nơi sông ngòi kênh rạch chằng chịt và nó là căn cứ chống quân xâm lược phương Bắc cũng như chống Pháp sau này)
5-
Đất Yên Khánh
Thánh làng Quỳ
(Câu ca này có vào sau này, khi phân ranh giới giữa Hải Phòng và Quảng Ninh. Còn từ năm 1891 trở về trước thì đảo có hang Son vẫn thuộc về thực địa làng Quỳ Khê, tổng Trúc Động, huyện Thủy Đường. Làng Quỳ Khê nằm ở gần bên hữu ngạn sông Bạch Đằng cổ và phía Tây Bắc của tổng Trúc Động. Vì thực địa làng Quỳ Khê có thực địa tới hết đảo hang Son. Hay trang 476 sách “Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí” xuất bản năm 1805 có ghi: “Đi ngược lên thì một nhánh đến sông Mỹ (từ năm 1890 là sông Giá), một nhánh đến sông Son, cả hai thuộc giang phận huyện Thủy Đường”. Sang đầu thế kỷ XX phân chia lại ranh giới, thì hang Son mới thuộc làng Yên Khánh, tổng Yên Khánh, huyện Đông Triều, vào thời cách mạng (sau 1945) thuộc xã Hồng Thái Tây, thị xã phố Đông Triều, nay thuộc phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Để chứng minh cho hai bên sông Đá Bạch ngày nay có nhiều sông ngòi, kênh rạch ở sâu trong nội địa thời nay, thì vào năm 1886 Tướng quân Đốc Tít chỉ huy nghĩa quân bắn cháy hai tàu chiến Pháp tại cửa hang Son và vào ngày 10 tháng 07 năm 1886 đã tấn công đồn Đông Triều. Rồi vào thời Pháp thuộc, người Pháp đã nắn chỉnh lại dòng Đá Bạc (Bạch) và nhiều thùng vũng ao hồ, sông ngòi dần được san lấp, thì bên tả ngạn sông do huyện Đông Triều quản lý, còn bên hữu ngạn sông do huyện Thủy Nguyên quản lý. Vì vậy tại khu vực này tới nay vẫn tồn tại câu ngạn ngữ trên.)
6-
Chó Thủy Đường cắn ra cỗ
Chó Trung Mỹ cắn ra cá
Chó Trịnh Xá cắn ra quấn hành
Chó Trại Kênh cắn ra cẫu
(Làng Thủy Đường, xưa thuộc tổng Thủy Đường, thời cách mạng thuộc xã Thủy Đường, nơi có tiếng làm cỗ to. Làng Trung Mỹ, sau này đổi thành Chung Mỹ, xưa thuộc tổng Kênh Triều, thời cách mạng thuộc xã Trung Hà. Sách “Đồng Khánh địa dư chí” ghi tại huyện Thủy Đường có làng Trung Mỹ và Lôi Động làm nghề chài lưới. Làng Trịnh Xá, xưa thuộc tổng Trịnh Xá, còn làng Trại Kênh (Kinh), xưa thuộc tổng Dưỡng Chân. Thủy Nguyên gọi cua là “cẫu”, ở Vĩnh Bảo, Tiên Lãng gọi là “rốc”, còn Hà Nội gọi là cua đồng)
7-
Nhất cao là núi U Bò
Nhất đông chợ Giá nhất to sông Dầng
(Núi U Bò, xưa thuộc làng Tràng Kênh, tổng Dưỡng Động, nay thuộc thị trấn Minh Đức. Còn chợ Giá thuộc làng Mỹ Giang, tên Nôm là Giá, xưa thuộc tổng Dưỡng Chân, thời cách mạng thuộc xã Kênh Giang)
8-
Ở nhà thì sợ cái nghèo
Còn đi thì sợ “núi Đèo” - Thủy Nguyên
(Thiếu Sơn (少山), nghĩa là núi nhỏ hay núi trẻ, hay núi thấp, còn từ Thiểu tên nôm là Đèo hay Dẹo, nên mới gọi núi Đèo, khu vực này là đơn vị hành chính giáp thuộc làng Dực Liến, tổng Trịnh Xá, thời cách mạng là phố Núi Đèo thuộc thị trấn Núi Đèo, huyện Thủy Nguyên. Nhưng nếu hai từ “núi Đèo” nói lộn lại, thì nghĩa nó lại hoàn toàn khác?)
9-
Lúa thơm Trịnh Xá
Khoai ngứa Trinh Thuần
Rau cần Tùng Động
(Làng Trịnh Xá, xưa thuộc tổng Trịnh Xá, nơi đây có cấy một số lúa thơm. Làng Trinh Thuần, vào cuối Lê Trịnh đổi là Trinh Hưởng, xưa thuộc tổng Trịnh Xá. Hai làng này, thời cách mạng thuộc xã Thiên Hương. Còn làng Tùng Động, đến thời Trịnh Tùng đổi thành Lâm Động, xưa thuộc tổng Lâm Động, thời cách mạng thuộc xã Lâm Động)
.
10-
Mắm tôm làng Lở
Khoai bở làng Sưa
Gốm lò làng Dãng
(Làng Lôi Động, tên Nôm là Lở, quê hương của Thượng thư – Đường Quận công - Tiến sỹ Nho học rất nổi tiếng Lê Đình Tú, xưa thuộc tổng Tùng Động, thời Trịnh Tùng đổi thành Lâm Động, thời cách mạng thuộc xã Hoàng Động có nghề làm mắm tôm rất ngon. Làng An Lư, tên Nôm là Sưa, trước đây thuộc tổng Thủy Đường, thời cách mạng thuộc xã An Lư. Làng Dưỡng Động, tên Nôm là Dãng, xưa thuộc tổng Dưỡng Động, thời cách mạng thuộc xã Minh Tân)
11-
Sông Đằng một dải lê thê
Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông
Giặc Bắc tàn ác chất chồng
Ba lần đền tội đều không đường về.
(Sông Bạch Đằng, gọi tắt là sông Đằng, tên nôm của từ Đằng là Rừng hay Dầng, nên gọi là sông Đằng, hay sông Rừng hay sông Dầng đều được. Ba lần bị quân dân Đại Việt đánh bại vào thời Ngô Quyền, thời Lê Đại Hành và thời nhà Trần)
12-
Tràng Kinh - Kim Quan
Cùng làng Dưỡng Động
(Dân làng Tràng Kinh (Kênh), xưa thuộc tổng Kim Quan, huyện Cẩm Giang, sau gọi chệch là Cẩm Giàng có họ hàng thân thích với dân làng Tràng Kinh (Kênh) ở tổng Dưỡng Động, huyện Thủy Đường, sau là Thủy Nguyên. Sau khi di cư xuống động Trúc ở cửa biển, họ không quên nơi chôn nhau cắt rốn của mình đã lấy tên là làng Tràng Kinh (Kênh). Hai làng này xưa kia có giao hiếu với nhau và có cùng một Thành hoàng là “Linh Phù Minh Hiển Bản Cảnh Thành Hoàng Chi thần”. Thần sắc ở Tràng Kênh – Cẩm Giang vào năm Khải Định thứ 9 ghi được gia tặng với mỹ tự “Đôn Ngưng Tôn thần”, tức vị Thành hoàng này là Thổ Thần. Trong đó nhiều nhà Hán Nôm thời nay cho là Thần sắc cho Tướng quân Trần Quốc Bảo, mặc dù chưa rõ ông là ai)
13-
Chiến trường – Hoàng Tôn
Xã thôn – Đền Thánh
(Câu này ý nói ở khu vực chiến trận thờ các vương tôn công tử cháu vua Trần thứ nhất (Trần Cảnh), những người ngang hàng với vua Trần Nhân Tông và chỉ thờ duy nhất ở phía Đông Động Trúc, sau này là làng Tràng Kênh, huyện Thủy Đường, thời cách mạng thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên. Song các nhà sử học thời nay lại theo sách thời Nguyễn là cho là Tướng quân Trần Quốc Bảo cháu nội vua Trần Nhân Tông. Thực tế con cháu vua Trần không có ai tên là Trần Quốc Bảo và cháu nội vua Trần Nhân Tông là Trần Minh Tông sau chiến tranh 12 năm mới sinh (1300 – 1357). Còn ở địa phương thờ Thánh, nghĩa là thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Theo quốc sử thời Đồng Khánh, triều đình nhà Nguyễn công nhận 3 di tích tại huyện Thủy Đường có liên quan tới nhà Trần gồm: “Đền thờ Hưng Đạo vương ở làng Thụ Khê, xưa thuộc tổng Trúc Động, thời nay thuộc xã Liên Khê; Đền thờ Hoàng Tôn nhà Trần ở làng Tràng Kinh, xưa thuộc tổng Dưỡng Động, thời nay thuộc thị trấn Minh Đức; Đền thờ Hiển Linh thần, tức con trai thứ 4 của Trần Hưng Đạo ở làng Trung Mỹ, sau là Chung Mỹ, xưa thuộc tổng Kinh Triều, thời nay thuộc xã Trung Hà”)
14-
Sâu nhất là khúc sông Dầng
Ba lần giặc đến ba lần giặc tan.
15-
Rừng không hung bằng Gót
(Giáp Gót thuộc làng Đôn Lương, xưa thuộc tổng Đôn Lương, huyện Cát Hải, thời nay là bến phà Gót bên hữu ngạn sông, còn bên tả ngạn sông là bến Cái Vang, gọi theo tên Nôm là Cái Viềng. Còn bến Rừng bên tả ngạn sông, hay bến Đoan ở bên hữu ngạn sông Bạch Đằng, nối từ huyện Thủy Nguyên sang huyện Yên Hưng, nay là Quảng Yên. Hai bến đò này đều khá rộng với bề ngang chừng trên dưới một cây số và khi gió to sóng cả đi qua dễ gặp nguy hiểm, nhưng bến Gót ở ngay cửa biển nguy hiểm hơn)
16-
Thành Dền Thiểm Khê
Đền Nghè Thanh Lãng
(Làng Thiểm Khê, xưa thuộc tổng Trúc Động, nơi có liên tiếp 20 ngọn, chân núi có thành cũ, gọi là thành nhà Mạc. Tương truyền nhà Mạc từng xây dựng Đấu Đong quân ở đây, núi này đối diện với núi Đồn (tên Nôm là Đụn) bên tả ngạn sông. Hay con sông từ ngã ba sông Mỹ (sau là thượng nguồn sông Giá) kéo xuống phía hạ lưu gọ là sông Thành Triền, theo tên Nôm là Thành Dền. Còn làng Thanh Lãng, xưa thuộc tổng Phù Lưu, thời nay thuộc xã Quảng Thanh, quê của Trạng nguyên Lê Ích Mộc đỗ năm 1502. Theo sách “Đồng Khánh địa dư chí” thì đền Nghè làng này được xếp hạng di tích thời Nguyễn, ngang với danh hiệu di tích cấp quốc gia thời nay)
17-
Nước Phi Liệt
Đi biền biệt khó về
(Làng Phi Liệt, xưa thuộc tổng Thượng Côi, huyện Thủy Đường. Thời cách mạng thuộc xã Vạn Xuân, huyện Thủy Nguyên. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, thì cả nước có 29 nơi có nước độc, thì Hải Dương có hai nơi: Tại Đông Triều có Hoàng Khê ở địa phận xã Đại Doanh và Bàng Khê ở xã Ninh Dương, còn Thủy Đường ở xã Phi Liệt)
18-
Trai làng Sưa chưa cưa đã đổ
Gái làng Dẹo chưa ghẹo đã theo
(Làng An Lư, tên Nôm là Sưa, hay Xưa, trước đây thuộc tổng Thủy Đường, thời cách mạng thuộc xã An Lư. Còn giáp Thiểu Sơn, tên Nôm là Dẹo, xưa thuộc tổng Trịnh Xá, thời cách mạng thuộc thị trấn Núi Đèo. Nhiều sách ghi Dẹo Sơn là chưa chính xác, vì nửa Hán nửa Việt)
19-
Chuông Kiền, trống Trịnh, lệnh Trúc Sơn
(Làng Xử Bái, sau đổi thành Kiền Bái, gọi tắt là Kiền, xưa thuộc tổng Trịnh Xá, thời cách mạng thuộc xã Kiền Bái. Làng Trịnh Xá, gọi tắt là Trịnh, xưa thuộc tổng Trịnh Xá, thời cách mạng thuộc xã Thiên Hương, huyện lỵ Thủy Nguyên có gần một thế kỷ đóng tại làng Trịnh Xá. Còn làng Trúc Sơn, xưa thuộc tổng Dưỡng Chân, thời cách mạng thuộc xã Đông Sơn. Nhiều sách chép chưa chính xác là Đông Sơn, vì địa danh thời nay mới là Đông Sơn)
20-
Quan Thanh Nghệ - Lính lệ Kiền Bái
(Trấn Thanh Hoa, đến thời Thiệu Trị (1841) vì húy đổi là Thanh Hóa, gọi tắt là Thanh, còn trấn Nghệ An, viết tắt là Nghệ. Lính lệ hay còn gọi là biền binh, hay mộ binh, là lính không thuộc đội quân chính quy được tuyển mộ từ các địa phương.
.
(Còn nữa)
Ngọc Tô (sưu tầm)

