VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
THƠ VĂN BẠN BÈ
CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN NGHI DƯƠNG (KIẾN THỤY)
Huyện Nghi Dương được tách ra từ huyện An Lão vào năm 1469, thời nay gồm huyện Kiến Thụy, quận Đồ Sơn, quận Dương Kinh và một phần phía Đông của quận Kiến An.CA DAO TỤC NGỮ THÀNH NGỮ CỔ VỀ HUYỆN NGHI DƯƠNG (KIẾN THỤY)
.
Huyện Nghi Dương được tách ra từ huyện An Lão vào năm 1469, thời nay gồm huyện Kiến Thụy, quận Đồ Sơn, quận Dương Kinh và một phần phía Đông của quận Kiến An, thành phố Hải Phòng. Hay vào thời cách mạng, thì huyện An Lão và huyện Kiến Thụy lại về chung một nhà hơn chục năm (1969 - 1980).
Trong phần ca dao tục ngữ cổ của huyện Nghi Dương, chúng tôi tìm kiếm những câu ca dao tục ngữ cổ để bạn đọc tham khảo:
1-
Cổ Trai Đế vương
Trà Hương Công chúa
(Làng Cổ Trai xưa thuộc tổng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, quê của Mạc Thái Tổ, tức Mạc Đăng Dung, thời cách mạng thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy. Còn làng Trà Hương (tên Nôm là Chè) thuộc tổng Trà Hương, thời Thành Thái đổi là Trà Phương, tổng Trà Phương, quê của Hoàng hậu Vũ Thị Ngọc Toàn. Trong đó “Từ điển Bách khoa Địa danh Hải Phòng” lại nghi Nguyễn Thị Ngọc Toản?)
2-
Văn miếu Xuân La
Đại khoa Lê Xá
Tôm cá Đa Ngư
Đảo mưa đền Mõ
(Làng Xuân La bên núi Đối xưa thuộc tổng Trà Hương, làng này có hai Tiến sỹ Nho học, thời nay thuộc xã Thanh Sơn. Có Văn miếu hàng huyện nay vẫn đang hoạt động; Làng Lê Xá xưa thuộc tổng Nãi Sơn có tới bảy Tiến sỹ Nho học gồm: Nguyễn Nhân Khiêm đỗ năm 1469, Bùi Phổ đỗ năm 1487, Trần Bá Lương đỗ năm 1499, Phạm Gia Mô đỗ năm 1505, Lê Thời Bật đỗ năm 1514, Nguyễn Huệ Trạch đỗ năm 1538, Hoàng Thuyên đỗ năm 1538, trong đó Bùi Phổ là thành viên Tao đàn Nhị thập bát tú; Làng Đa Ngư thuộc tổng Cổ Trai, thời nay thuộc xã Tân Trào; Đền Mõ thuộc Mỗ Xá, từ thời Lê sơ là làng Nghi Dương, tổng Nghi Dương thờ Nữ thần A nàng Thiên Thính Quỳnh Trân, thời nay thuộc xã Ngũ Phúc, thời phong kiến cầu đảo mưa khá linh ứng. Câu ca này có từ cuối thời Lê Trịnh)
3-
Ông Sáu là cháu ông Sáu Mươi
(Bến đò Sáu, thời nay tên là Sứa thuộc thực địa làng Mai Dương xưa thuộc tổng Nghi Dương, thời nay thuộc xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy. Còn bến bên hữu ngạn sông thuộc tổng Cẩm Khê, huyện Tân Minh, thời nay thuộc xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng do bố đẻ Mạc Đăng Dung là Mạc Đăng Hịch chở. Còn ngược lên thượng lưu một đoạn là bến đò Sáu Mươi, thời nay thuộc thực địa xã Ngũ Phúc huyện Kiến Thụy, bên hữu ngạn thuộc tổng Kỳ Vỹ, huyện Tân Minh, thời nay thuộc xã Quang Phục, huyện Tiên Lãng. Thời kỳ đầu do ông Mạc Phúc Thung (cụ nội của Mạc Đăng Dung) chở. Về nghĩa đen thì là hai ông cháu, nhưng về nghĩa bóng thì lưu lượng khách đò Sáu Mươi hơn đò Sáu. Tại sao hai đò này lại mang tên số, chúng tôi trình bày ở phần khác. Câu ca này có từ thời Mạc)
4-
Chơi với dân làng Mõ
Chẳng mất chõ cũng mất xôi
(Mỗ Xá, tên Nôm là Mõ, đến thời Lê sơ đổi thành làng Nghi Dương, thuộc tổng Nghi Dương, là lỵ sở của huyện Nghi Dương. Tên Mõ không liên quan gì đến tiếng mõ hay gõ mõ cả, hiện tại ở Việt Nam cũng có nhiều địa danh mang tên Mõ. Thôn này thời nay thuộc xã Ngũ Phúc)
5-
Ông Khuể nể ông Sáu Mươi
(Lưu lượng khách qua đò Khuể cũng chỉ ngang với lưu lượng khách qua đò Sáu Mươi)
6-
Dính với dân Đức Phong
Chả mất gồng thì cũng mất gánh
(Làng Đức Phong xưa thuộc tổng Đại Trà, thời nay thuộc xã Đại Đồng)
7-
Tổng Mõ vật cầu
Tổng Cau gieo (reo) mạ
(Thời Lê Trịnh, tổng Mõ, tức tổng Nghi Dương gồm 5 làng là Nghi Dương, Xuân Dương, Mai Dương, Du Lễ và Tú Đôi, nhưng đất đai đến chỗ nào chưa rõ. Vào thời Mạc thuộc Dương Kinh. Còn tổng Cau ở huyện Phụ Dực cổ, từ năm 1890 thuộc tỉnh Thái Bình, thời nay gồm các xã An Hiệp, An Mỹ, An Thanh, An Ninh... Vào thời Mạc, thì hầu hết thực địa Thái Bình thời nay thuộc Dương Kinh, vì vậy câu ca này có từ thời Mạc, tức vào thế kỷ XVI. Hai từ reo mạ là lễ xuống đồng đầu năm cầu cho mùa màng bội thu.)
8-
Chơi với dân Phong Cầu
Chẳng biêu đầu thì cũng vỡ trán
(Làng Phong Cầu xưa thuộc tổng Đại Trà, thời nay thuộc xã Đại Đồng)
9-
Tơ tằm Thiên Lộc vân vi
Thuốc lào Tiên Lãng ai bì thơm ngon
(Làng Thiên Lộc xưa thuộc tổng Thiên Lộc, sau đổi thành Đại Lộc, thời nay thuộc xã Đại Hợp)
10-
To đình Vàng
Sang đình Tiểu
(Làng Thiên Lộc xưa thuộc tổng Thiên Lộc, sau đổi thành Đại Lộc, thời nay thuộc xã Đại Hợp, tên Nôm của làng này là Vàng. Còn làng Tiểu Trà xưa thuộc tổng Tiểu Trà, thời nay thuộc xã Hưng Đạo, nay thuộc quận Dương Kinh. Đình thờ thần Nam Hải Đại Vương, húy là Phạm Hải thời Hùng Vương, một số thôn khác trong tổng cũng thờ vị thần này như Trà Khê, Phấn Dũng…)
11-
Chuông chùa Thống
Trống Kỳ Sơn
Bia chùa Ngọc
(Thống là tên Nôm của giáp Ngọc Tỉnh, gọi theo dân gian là chùa Thống, còn bia đá ghi là chùa Ngọc Tỉnh. Trước năm 1900 Ngọc Tỉnh là một giáp của làng Kỳ Sơn, xưa thuộc tổng Cổ Trai. Thôn dân Kỳ Sơn cổ xưa từ làng Kỳ Sơn, huyện Tam Dương, phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây di cư về đây làm nghề chài lưới, sau lên bờ lập ấp và không quên nơi chôn nhau cắt rốn của mình lấy tên là Kỳ Sơn, giống như làng Kê Sơn ở Vĩnh Bảo là thôn dân từ làng Kệ Sơn, tổng Thượng Chiếu, Đông Triều về. Thời cách mạng Kỳ Sơn thuộc xã Tân Trào).
12-
Chơi với dân làng Chè
Chẳng mất đe thì cũng mất búa
(Làng Trà Hương sau đổi là Trà Phương, tên Nôm là Chè, thời nay thuộc xã Thụy Hương)
13-
Chó Lãng Côn cắn ra bánh đa
Chó Đại Trà cắn ra diều gió
Chó Lê Xá cắn ra chữ
(Làng Lãng Côn xưa thuộc tổng Đại Trà, thời nay là thôn Lạng Côn, xã Đông Phương. Làng Đại Trà xưa thuộc tổng Đại Trà, thời nay thuộc xã Đông Phương. Còn làng Lê Xá xưa thuộc tổng Nãi Sơn, thời nay thuộc xã Tú Sơn, đây là làng có nhiều Tiến sỹ Nho học nhất Hải Phòng gồm 7 vị)
14-
Mòi kho Kiến Thụy nức vang
Cá sông Văn Úc trắng vàng dài đuôi
Hay các phụ gia:
Chay khô, kẹo đắng, lát hành
Mỡ lợn, riềng, sả, chuối xanh, răm, cà
(Sông Văn Úc có tên từ năm 1890, hay phủ Kiến Thụy thay huyện Nghi Dương từ năm 1925, nên câu ca này có vào thế kỷ XX)
15-
Làng Kỳ bánh đúc bánh đa
Làng Thống buôn rủi, làng Đa buôn trầu
Làng Kim săn lác xẻ hàu
Làng Cổ đỏ đầu lại cố lặn xăm
Làng Ngọc buôn thuốc bán chăn
Làng Nhân mắm muối quanh năm tối ngày
(“Buôn rủi bán may”, hay săn cá lác, xẻ hàu là ghè hà. Các chữ viết tắt là làng Kỳ Sơn, Ngọc Tỉnh tên Nôm là Thống, Đa Ngư, Kim Sơn, Cổ Trai, Ngọc Liễn và Nhân Trai, thời nay thuộc xã Tân Trào, Ngũ Đoan và Đại Hà. Câu ca này của tổng Cổ Trai có vào đầu thế kỷ XX)
16-
Khoai lang làng Kiện rất bùi
Thuốc lào làng Cổ rít hơi say mèm
(Làng Kiện Bộ sau này đổi thành Cao Bộ, xưa thuộc tổng Cổ Trai, thời nay thuộc xã Đại Hà. Làng Cổ tức Cổ Trai, thời nay thuộc các xã Ngũ Đoan)
17-
Chơi vơi dân Quế Lâm
Chẳng mất mâm thì cũng mất cỗ
(Làng Quế Lâm xưa thuộc tổng Trà Hương, sau đổi thành Trà Phương. Thời nay thuộc xã Thụy Hương).
18-
Lạng Côn bánh đúc bánh đa
Đức Phong muối lậu, Đại Trà củi trang
Phong Cầu đánh giậm cả làng
Môi thâm xìn xịt vênh vang nỗi gì
(Làng Lãng Côn xưa thuộc tổng Đại Trà, thời nay là thôn Lạng Côn, xã Đông Phương. Làng Đức Phong xưa thuộc tổng Đại Trà, thời nay thuộc xã Đại Đồng. Làng Đại Trà xưa thuộc tổng Đại Trà, thời nay thuộc xã Đông Phương. Làng Phong Cầu xưa thuộc tổng Đại Trà, thời nay thuộc xã Đại Đồng)
19-
Chơi với dân làng Hổi
Mất cả chổi lẫn giễ
Hay:
Không dây với làng Hủi
(Làng Phúc Hải xưa thuộc tổng Phúc Hải (tên Nôm là Hổi hay Hủi). Thời cách mạng thuộc xã Đa Phúc, huyện Kiến Thụy, nay thuộc phường Đa Phúc quận Dương Kinh. Có thể trước kia làng này có nhiều người mắc bệnh hủi, hoặc trại Hủi được đặt ở khu vực này).
20-
Tiếng đồn tổng Cổ giàu ghê
Làng Cổ lắm nghề cấy lúa đóng xăm
Làng Nhân buôn bán ầm ầm
Làng Kim lập ấp lại chăm ghè hà
(Các địa danh này xưa thuộc tổng Cổ Trai, thời nay thuộc xã Ngũ Đoan, Đại Hà và Tân Trào. Làng Nhân Trai, gọi tắt là Nhân, xưa thuộc tổng Cổ Trai, thời nay thuộc xã Đại Hà. Còn Kim Sơn gọi tắt là Kim, xưa thuộc tổng Cổ Trai, thời nay thuộc xã Tân Trào. Câu ca này của tổng Cổ Trai)
21-
Chàng trai giữa ngã ba khe
Muốn trèo lên Đống hay về Mao đây
Hay còn đứng đợi ai hay
Rủ rê Hoa - Mỹ về ngay một nhà?
(Đây là câu ca của tổng Đống Khê huyện Nghi Dương thời Nguyễn. Chữ Khê (溪) trong tiếng Hán có nghĩa là khe suối nước, lạch nước. Các chữ Hoa trên là viết tắt của các làng giáp sau: Đống Khê, Mao Khê, Hoa Khê và Mỹ Khê. Đến trước năm 1945 thì tổng Đống Khê vẫn thuộc huyện Nghi Dương gồm các làng sau: Đống Khê, Lãm Hà, Lãm Khê, Mỹ Khê và Trữ Khê. Tổng Đống Khê này thời nay thuộc phường Lãm Hà, phường Đồng Hòa và một phần phường Quán Trữ, quận Kiến An, bên hữu ngạn sông Lạch Tray)
22-
Rượu nấu Mỹ Khê
Thịt dê làng Trữ
Khoai bự làng Lãm
(Đây là câu ca của tổng Đống Khê, trong đó Mao Khê đầu thế kỷ XX đổi thành Trữ Khê, gọi tắt là Trữ, còn Lãm Hà và Lãm Khê bên hữu ngạn sông Lạch Tray gọi tắt là Lãm)
23-
Chơi với dân làng Ngò
Chẳng mất bò thì cũng mất trâu
(Làng Kim Đới, tên Nôm là Ngò, xưa thuộc tổng Văn Hòa, huyện An Lão. Từ đầu thế kỷ XX, tổng Văn Hòa này (gồm 7 làng là: An Áo, Hòa Neo, Kim Đới, Úc Gián, Văn Cao, Văn Hòa và Xuân Úc) được cắt về phủ Kiến Thụy, từ sau năm 1945 là huyện Kiến Thụy. Thời nay thuộc xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy)
24-
Văn Hòa thúng mủng giần sàng
Thuyền nan lũ lượt dọc ngang lối vào
(Làng Văn Hòa cổ thuộc tổng Văn Hòa, huyện An Lão. Từ đầu thế kỷ XX, tổng Văn Hòa này (gồm 7 làng là: An Áo, Hòa Neo, Kim Đới, Úc Gián, Văn Cao, Văn Hòa và Xuân Úc) được cắt về phủ Kiến Thụy, từ sau năm 1945 là huyện Kiến Thụy. Thời nay thuộc xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy)
25-
Làng Neo thuyền nan
Làng An đóng cối
Làng Đới cấy rẽ
(Đây là một số ngành nghề của tổng Văn Hòa xưa thuộc huyện An Lão. Từ đầu thế kỷ XX thì tổng này được cắt về phủ Kiến Thụy, sau 1945 là huyện Kiến Thụy. Riêng làng An Áo viết tắt là An, thời cách mạng được cắt về xã An Thái, huyện An Lão có nghề đóng cối xay và sau này còn làm nghề vàng mã khá nổi tiếng. Còn làng Hòa Neo, gọi tắt là Neo, thời nay là Hòa Liễu, gọi tắt là Liễu thuộc xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy có nghề làm và sảm thuyền nan khá nổi tiếng. Ngoài ra nơi đây có lễ hội Minh Thề khá đặc sắc. Hay làng Kim Đới, tên Nôm là Ngò, gọi tắt là Đới xưa thuộc tổng Văn Hòa, thời nay thuộc xã Hữu Bằng huyện Kiến Thụy có nhiều người cấy rẽ)
26-
Chơi với dân Quần Mục
Chẳng mất đục cũng mất cưa
(Làng Quần Mục xưa thuộc tổng Thiên Lộc, sau này đổi thành Đại Lộc. Địa danh này thời cách mạng thuộc xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy. Tại Quần Mục có đồn Cồn do người Pháp lập)
27-
Bà Đanh – Trà Hương
Nghi Dương – Hồng Phúc
Chùa Trúc – Du Lễ
(Chùa Bà Đanh ở làng Trà Hương, xưa thuộc tổng Trà Hương, sau đổi thành Trà Phương, thời cách mạng thuộc xã Thụy Hương. Thời nay chùa này còn giữ được tấm bia đá trùng tu ghi Hoàng thân quốc thích nhà Mạc đóng góp kinh phí vào năm Thuần Phúc năm thứ nhất (1565) mang tên “Tu tạo Bà Đanh tự chi bi”, tức “Bia tu tạo chùa Bà Đanh”, sau này chùa còn gọi theo Hán Việt là Thiên Phúc. Nếu so minh chứng cụ thể với chùa Bà Đanh ở Hà Nam, thì chùa Bà Đanh Kiến Thụy có lịch sử ra đời trước hàng mấy trăm năm, hay chùa này còn có đóng góp của Hoàng thân quốc tích của nhà vua, nhưng nhiều người Hải Phòng còn chưa biết về ngôi chùa cổ kính này; Chùa Hồng Phúc ở Mỗ Xá, tên Nôm là Mõ, đầu thời Lê sơ đổi là Nghi Dương thuộc tổng Nghi Dương, ngày nay chùa Hồng Phúc ở cạnh đền Mõ thuộc xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy. Nay trước cửa chùa vẫn còn tấm bia trùng tu do Hoàng thân quốc thích nhà Mạc đóng góp kinh phí vào năm Diên Thành thứ 6 (1583) đời vua Mạc Mậu Hợp. Trên bia này không thấy có bất kỳ chữ nào liên quan tới vị thần A Nương Thiên Thính Quỳnh Trân, hay “Bà chúa Mõ”. Hay khi tả quang cảnh chùa Hồng Phúc không thấy viết gì về ngôi miếu, hay đền nào liên quan ở kế bên. Điều này càng khảng định thêm vị thần A Nương Thiên Thính Quỳnh Trân không phải là người sáng lập và tu hành tại chùa Mõ, mà địa phương nơi đây mang tên Nôm là Mõ và đền Mõ không ở sát chùa Mõ như thời nay; Trúc Am, tức chùa Trúc nằm ở phía Tây làng Du Lễ, tổng Nghi Dương, thời cách mạng thuộc xã Ngũ Phúc, gần đây là xã Du Lễ. Thời nay chùa này còn giữ được tấm bia do Hoàng thân quốc thích nhà Mạc đóng góp tu tạo năm Đoan Thái thứ 4 (1588) mang tên “Trúc Am tự bi”, nghĩa là Bia chùa Trúc”. Ba chùa trên nay đều thuộc huyện Kiến Thụy và có công đóng góp của Hoàng thân quốc thích nhà Mạc, giống như thời nay là di tích cấp quốc gia)
28-
Làng Neo – Thiên Phúc
Làng Bách – Hoa Tân
Làng Văn – Phổ Chiếu
(Chùa Thiên Phúc ở làng Hòa Neo, gọi tắt là Neo, xưa thuộc tổng Văn Hòa, huyện An Lão. Từ năm 1891 tổng Văn Hòa được cắt về huyện Nghi Dương, sau năm 1945 là huyện Kiến Thụy. Thời cách mạng là thôn Hòa Liễu, gọi tắt là Liễu thuộc xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy. Thời nay tại chùa vẫn còn tấm bia trùng tu do Hoàng thân quốc thích nhà Mạc đóng góp làm năm Quang Bảo thứ 9 (1563) mang tên “Tạo Thiên Phúc tự bi” nghĩa là “Bia làm chùa Thiên Phúc”; Chùa Hoa Tân ở làng Bách Hoa, tới thời Thiệu Trị đổi là Bách Phương, xưa thuộc tổng An Luận, huyện An Lão, nay thuộc xã An Thắng, huyện An Lão. Thời nay tại chùa vẫn còn tấm bia do Hoàng thân quốc thích nhà Mạc đóng góp tu tạo năm Diên Thành thứ 5 (1582 ) mang tên “Hoa Tân tự bi” nghĩa là “Bia chùa Hoa Tân”; Chùa Phổ Chiếu ở làng Văn Hòa, tổng Văn Hòa, huyện An Lão. Từ năm 1891 tổng Văn Hòa được cắt về huyện Nghi Dương, thời cách mạng là thôn Văn Hòa xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy. Thời nay tại chùa vẫn còn tấm do Hoàng thân quốc thích nhà Mạc đóng góp ruộng đất năm Diên Thành thứ 2 (1579) mang tên “Cúng điền bi”, tức “Bia ghi việc cúng ruộng”. Cả ba chùa trên đều do Hoàng thân quốc thích nhà Mạc đóng góp tiền bạc hay ruộng vườn vào việc xây dựng hay tu tạo, so với thời nay cả ba chùa trên ngang với di tích cấp quốc gia)
29-
Ông Khách thách ông Đạt
(Ông Khách, tức bến đò Khách. Bến đò này được ghi trong sách “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” của Thượng thư bộ Binh, TS Nho học Lê Quang Định năm 1806, tức bến đò từ làng Đào Yêu, xưa thuộc tổng Điều Yêu, nay thuộc phường Hồng Thái, quận An Dương. Còn bên hữu ngạn sông là thôn Địa Chất, xưa thuộc tổng Văn Đẩu, huyện An Lão, thời nay thuộc phường Bắc Sơn, quận Kiến An; Ông Đạt, tức bến đò Đạt, thời trước ở khu cực làng Niệm Nghĩa, còn bên hữu ngạn sông thuộc tổng Đống Khê, huyện Nghi Dương. Từ khi có cầu Niệm (1934) bến đò này đã dịch chuyển xuống hạ lưu thuộc làng Đôn Nghĩa cùng tổng Đông Khê, thời nay thuộc khu Vinhome Marina cầu Rào. Còn bên hữu ngạn sông là làng Cổ Trà, tổng Cổ Trà, huyện Nghi Dương, thời nay là phường Hưng Đạo, quận Dương Kinh. Câu này ý nói số lượng khách qua đò Khách không kém gì đò Đạt)
30-
Bưởi Đại Trà
Gà Văn Cú
Vú Đồ Sơn
(Làng Đại Trà, xưa thuộc tổng Đại Trà, huyện Nghi Dương, thời nay thuộc xã Đông Phương huyện Kiến Thụy. Làng Văn Cú, xưa thuộc tổng Văn Cú, huyện An Lão, thời nay thuộc xã An Đồng, huyện An Dương. Còn Đồ Sơn xưa thuộc huyện Nghi Dương, sau này là huyện Kiến Thụy, thời nay thuộc quận Đồ Sơn)
31-
Làng Thống cá bống chết trương
Làng Kỳ phải tội mang hương về thờ
(Giáp Ngọc Tỉnh, tên Nôm là Thống trở thành đơn vị hành chính cấp làng từ năm 1891 từ làng Kỳ Sơn, tổng Cổ Trai. Vì vậy câu ca này có vào đầu thế kỷ XX và hai thôn này thời nay thuộc xã Tân Trào. Câu ca này nói về làng Thống làm nghề chài lưới, lúc mang cá mú về đã bị ươn, phải nhờ làng Kỳ tiêu thụ hộ)
32-
Hỡi cô thắt dải lưng xanh
Có về Ngọc Tỉnh với anh thì về
Ngọc Tỉnh rợp bóng cây đề
Có giếng tắm mát có nghề ra khơi
(Giáp Ngọc Tỉnh, tên Nôm là Thống thuộc làng Kỳ Sơn, tổng Cổ Trai, từ năm 1891 trở thành đơn vị hành chính cấp làng thuộc tổng Cổ Trai, thời nay thuộc xã Tân Trào)
33-
Trai núi Đối, ngồi trên núi Đối, viết câu đối
Gái sông Văn, đứng dưới sông Văn, thảo bài văn
(Sông Văn theo nghĩa bóng còn nghĩa đen là sông Đa Độ, còn từ bên tả ngạn ở làng Đức Phong sang bên hữu ngạn có dòng Tắc Giang nghĩa là dòng sông bị tắc bởi cống, chứ sông Đa Độ không thể gọi là sông Tắc được. Giống như trường hợp ở kênh Tranh Giếc ngay chỗ cầu Mục trung tâm huyện Vĩnh Bảo cũng có Tắc Giang với câu ca khá nổi tiếng: “Tiên Am nổi tiếng Nhất Đồng. Tri Mô tan xác giữa dòng Tắc Giang”)
NGỌC TÔ (Sưu tầm)
Còn nữa

