VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
THƠ VĂN BẠN BÈ
CA DAO TỤC NGỮ CỔ VỀ HUYỆN AN LÃO – HẢI PHÒNG
Huyện An Lão cổ bao gồm cả quận Kiến An, huyện Kiến Thụy, quận Dương Kinh và quận Đồ Sơn.CA DAO TỤC NGỮ CỔ VỀ HUYỆN AN LÃO – HẢI PHÒNG
.
Huyện An Lão cổ bao gồm cả quận Kiến An, huyện Kiến Thụy, quận Dương Kinh và quận Đồ Sơn. Từ năm 1469 thì phần đất phía Đông Nam được tách ra mang tên huyện Nghi Dương (sau 1945 là Kiến Thụy). Thời cách mạng hai huyện An Lão và Kiến Thụy đã sáp nhập mang tên An Thụy kéo dài 11 năm. Có thể khẳng định cái tên An Lão có trước cái tên Kiến An ít nhất chừng 1.500 năm.
Chúng tôi sưu tầm những câu ca dao tục ngữ của huyện An Lão sau khi đac có huyện Nghi Dương, tức gồm huyện An Lão và quận Kiến An thời nay.
1-
Kênh rạch đất Quan Trang
Ngổn ngang mùa nước nổi
(Tổng Quan Trang gồm 8 làng mang tên: Quan Trang, Thực Trang, Nghĩa Trang, Đại Trang, Thượng Trang, Hạ Trang, Trung Trang và Ích Trang thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Từ đầu thế kỷ XX được cắt về huyện An Lão, tỉnh Kiến An, thời nay thuộc xã Bát Trang. Tới đầu thập niên 60 thế kỷ XX vẫn chưa có đường bộ về xã này)
2-
Thuyền bè bát Trang
Tre đan Tiên Cầm
Uyên thâm Thạch Lựu
(Bát Trang gồm 8 làng Trang là Quan Trang, Thực Trang, Nghĩa Trang, Đại Trang, Thượng Trang, Hạ Trang, Trung Trang và Ích Trang, thời nay thuộc xã Bát Trang. Làng Tiên Cầm thuộc tổng Đại Phương Lang, thời nay thuộc xã An Thái. Làng Thạch Lựu thuộc tổng Đại Phương Lang, thời nay thuộc xã An Thái)
3-
Chó Câu Hạ cắn ra rượu
Chó Thạch Lựu cắn ra chữ
Chó Phương Chử cắn ra đá
(Câu Hạ thuộc tổng Câu Thượng, thời nay thuộc xã Quang Hưng; Thạch Lựu thuộc tổng Đại Phương Lang, nay thuộc xã An Thái. Làng duy nhất tại Hải Phòng có 3 cha con đều đỗ Tiến sỹ Nho học là Nguyễn Kim đỗ Tiến sỹ năm 1502, làm quan tới chức Hữu Thị lang (Thứ trưởng). Còn con trai là Nguyễn Chuyên Mỹ đỗ Tiến sỹ năm 1514, làm quan tới chức Thượng thư (Bộ trưởng), tước Văn Đẩu hầu, phần lớn đồng bằng của tổng Văn Đẩu là đất của ông do vua Mạc ban, đặc biệt là khu vực thực địa phía trái đường Lê Duẩn tới sông Lạch Tray, nhưng chúng tôi không thấy một ngôi đền thờ nào thời nay được dựng. Và con trai thứ 2 ông là Nguyễn Đốc Tín đỗ Hoàng giáp cùng năm, làm quan tới chức Thượng thư (Bộ trưởng), tước Mỹ Thọ hầu. Theo luật phong ấm thời phong kiến, khi ai đó được ban tước hầu, thì bố đẻ hay con trai được phong tước bá, do vậy Hữu Thị lang Nguyễn Kim được phong tước bá. Sau này tại làng này có nhiều người đỗ Sinh đồ và Cống sỹ ở các hậu duệ đời sau; Còn làng Phương Chử thuộc tổng Phương Chử, thời nay thuộc xã Trường Thành, chuyên làm nghề chế tác đá)
4-
Đồng thế đồng triều tam Tiến sỹ
Lưỡng gia nhất nhật lưỡng vinh quy
Tạm dịch:
Cùng một đời, cùng một triều đại có ba người đỗ Tiến sỹ
Cùng một nhà, cùng một ngày có hai người được vinh quy
(Như chú thích câu trên đã nêu. Trong đó Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có soạn bài “Đề Văn Đẩu hầu gia” ca ngợi truyền thống học hành của cha con, anh em Nguyễn Kim nói chung và ca ngợi thơ Nguyễn Chuyên Mỹ nói riêng)
5-
Dân tổng Văn được ăn lộc quan
(Khi Thượng thư Nguyễn Chuyên Mỹ được vua Mạc ban tước Văn Đẩu hầu và kèm theo là kiến địa, tức giao cho một vùng đất mới tương đương với một xã để người được phong tước quản lý. Đây là vùng đất ở tổng Văn Đẩu, gọi tắt là tổng Văn thuộc huyện An Lão xưa)
6-
Đứng trên đỉnh núi ta thề
Chưa giết được giặc chưa về núi Voi
(Tượng Sơn, tức núi Voi. Thời cổ núi này nằm trong 20 núi gọi là đồ sơn, tức núi đất. Nơi đây đã từng là căn cứ kháng chiến thời Mạc, thời chống Pháp và thời chống Mỹ của quân dân Hải Phòng. Thời cổ Tượng Sơn thuộc tổng An Luận, thời nay núi này thuộc xã Trường Thành, An Tiến và An Thắng)
7-
Nổi tiếng Đấu Đong
Lòng vòng Đào Lĩnh
Hiệu lệnh Mã Yên
(Đẩu Sơn hay Đấu Sơn, có nghĩa là núi như hình chiếc đấu. Trong đó các sách “Đại Nam nhất thống chí” và “Hải Dương toàn hạt dư chí” đều ghi: “Núi Đấu ở thôn Thượng Chất bốn mặt cao, ở giữa trũng như hình cái đấu, do đó mang tên núi Đấu. Tục truyền nhà Mạc thường đong quân ở đó”, thời nay là khu vực Bộ Tư lệnh quân khu Ba; Đào Lĩnh là núi của làng Phù Liễn, từ đầu thế kỷ XX còn gọi là đồi Thiên Văn. Trong đó trang Di tích Lịch sử Văn hóa quận Kiến An của Ban Tuyên giáo thành phố lại ghi: “Núi Cột Cờ xưa kia có tên là núi Phù Liễn, thuộc địa phận phường Tràng Minh, quận Kiến An”. Còn Mã Yên, tức Yên Ngựa, từ thời Pháp thuộc (1902) là núi Cột Cờ, có sân bay quân sự Kiến An ở bên trái núi. Tất cả ba núi trên thời nay thuộc quận Kiến An)
8-
Yên ả núi Dương
Nhớ thương núi Vọ
(Theo “Đồng Khánh địa dư chí” thì Dương Sơn, tức Núi Dương vì thường có nhiều chim Dương về sinh sống, xưa thuộc làng Kha Lâm và Cựu Viên, tổng Văn Đẩu, thời nay thuộc phường Quán Trữ, Nam Sơn và Bắc Sơn. Núi này lẫn cả đất và đá. Còn Vụ Sơn, tức núi Vọ, nghĩa là núi Vịt Trời ở làng Đồng Tử (Tải), tổng Phù Lưu gần sông Đa Độ, nay thuộc phường Phù Liễn, quận Kiến An. Núi đá này cao chừng hơn chục trượng gần sông Cửu Biều, nay là Đa Độ)
9-
Quê tôi có núi ông Voi
Có sông Văn Úc có đồi Thiên Văn
(Câu ca này có vào thế kỷ XX, vì đồi Thiên Văn được mang tên từ đầu thế kỷ XX, còn tên sông Văn Úc được đổi từ năm 1890)
10-
Chơi với dân Trung Thanh Lang có ngày vàng mắt.
(Trung Thanh Lang thuộc tổng Đại Phương Lang, thời nay thuộc xã An Thái, huyện An Lão).
11-
Trai Vớ chẳng sợ nào ai
Về nhà lại sợ vợ sai đốt lò
(Câu ca này ở tổng Phù Lưu, nói về con trai làng Phù Lưu, tên Nôm là Vớ hay Dầu, lúc ra ngoài thì bặm trợn, nhưng lúc về nhà lại sợ vợ nem nép)
12-
Trai làng Sái
Gái làng Dầu (Trầu)
(Làng Sái Nghi gọi tắt là Sái thuộc tổng Biều Đa, thời nay thuộc xã Mỹ Đức. Còn làng Phù Lưu, tên Nôm là Dầu hay Trầu thuộc tổng Phù Lưu, thời nay thuộc phường Tràng Minh. Câu này ý nói con trai Sái Nghi và con gái Phù Lưu không phải dạng vừa, ghê gớm)
13-
Chơi với dân Áng Sơn
Dễ thiệt đơn thiệt kép.
(Áng Sơn thuộc tổng Đại Hoàng, thời nay thuộc xã Thái Sơn, huyện An Lão).
14-
Vợ xấu Văn Tràng
Đảm đang Hạnh Thị
(Vì hai làng này dung nhan người dân không được đẹp lắm, nhưng lại chăm chỉ làm ăn và đạo đức tốt. Làng Văn Tràng thuộc tổng Văn Đẩu, thời nay thuộc xã Trường Sơn. Còn làng Hạnh Thị, tổng Đại Phương Lang, thời nay thuộc xã An Thọ huyện An Lão).
15-
Chơi với dân Sái Nghi mất cả chì lẫn chài
(Sái Nghi tổng Biều Đa, thời nay thuộc xã Mỹ Đức)
16-
Thứ nhất chợ Ruồn
Vừa buôn Quy Tức
Vừa sức Trung Thanh Lang
(Ba chợ này khá nổi tiếng được trang 485 sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi. Ruồn là tên Nôm của An Luận thuộc tổng An Luận vì trên bến dưới thuyền, thời nay thuộc thị trấn An Lão. Chợ Quy Tức hay còn tên khác là Quy Ân thuộc tổng Phù Lưu, thời cách mạng thuộc phường Bắc Hà, thời nay thuộc phường Phù Liễn, quận Kiến An. Còn Trung Thanh Lang thuộc tổng Đại Phương Lang, thời nay thuộc xã An Thái)
17-
Linh thiêng đền Đô Úy
Khả dĩ đền Dụ Khánh
(Đây là hai đền thờ duy nhất tại huyện An Lão, được triều đình nhà Nguyễn công nhận, tương đương với Di tích cấp quốc gia ngày nay. Đền thờ Phò mã Đô Úy Đại Vương (húy là Cao Toàn) và Công chúa Chiêu Hoa thời Trần tại chân núi Đào Lĩnh, nay thuộc phố Sơn Tây, phường Trần Thành Ngọ, quận Kiến An. Sau khi về trí sỹ hai vợ chồng ông mộ dân khai khẩn ruộng đất, dựng nhà ở chân núi Đào Lĩnh. Sau khi mất được nhân dân địa phương lập đền trên vườn cũ phụng thờ, khi có việc cầu đảo thấy hiển linh ứng nghiệm. Còn đền thờ thần Dụ Khánh ở làng Bách Hoa, từ thời Thiệu Trị đổi là Bách Phương, tổng An Luận, thời nay thuộc xã An Thắng, huyện An Lão. Năm hạn hán quan phủ đến cầu đảo, đều thấy linh ứng)
18-
Đồng xanh láng Cả xa sau
Kha Lâm bán thóc kiện nhau ời ời
Cựu Viên bán thúng khoai rời
Thượng Chất quanh đời bán mẹt ổi xanh
(Làng Kha Lâm thuộc tổng Văn Đẩu, huyện An Lão, thời cách mạng thuộc xã Nam Hà, thời nay thuộc phường Nam Sơn, quận Kiến An; Làng Cựu Viên thuộc tổng Văn Đẩu, huyện An Lão, thời nay thuộc phường Bắc Sơn, quận Kiến An có nghĩa trang Cựu Viên khá nổi tiếng. Còn giáp Thượng Chất sau cũng thuộc tổng Văn Đẩu, thời nay thuộc phường Bắc Sơn, quận Kiến An)
19-
Dù ai buôn đâu bán đâu
Hai tư tháng Tám bảo nhau mà về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Hai tư tháng Tám nhớ về dâng hương!
(Ngày 24 tháng 8 âm lịch hằng năm là ngày giỗ Trạng nguyên Trần Tất Văn. Câu ca ở làng Nguyệt Áng, tổng Phù Lưu, huyện An Lão có từ rất xa xưa, nay thuộc xã Thái Sơn, huyện An Lão. Vì huyện Nghi Dương được tách ra từ huyện An Lão vào năm 1469, nên câu ca về chọi trâu ở Đồ Sơn có thể lấy từ câu này mà ra)
20-
Cựu Viên lưng tựa núi Giang
Vai kề núi Đấu ôm quàng Lạch Tray
Cựu viên đất cổ xưa nay
Non sông đồng ruộng đắm say tình người.
(Câu ca này có vào thời Pháp thuộc (vì lúc này sông Nại đã đổi thành Lạch Tray) của làng Cựu Viên, tổng Văn Đẩu, huyện An Lão, tỉnh Kiến An, thời cách mạng thuộc xã Nam Hà, thời nay phường Bắc Sơn, quận Kiến An)
21-
Kha Lâm có đình Giáp Ba
Có miếu vua Bà, Láng Cả đồng xanh
(Làng Kha Lâm xưa thuộc tổng Văn Đẩu, thời cách mạng thuộc xã Nam Hà, thời nay thuộc phường Nam Sơn quận Kiến An. Tại đình Kha Lâm thờ 5 vị Thành hoàng, trong đó có vị Công chúa Chiêu Chinh thì bảng kê Thần tích Thần sắc của làng năm 1938 ghi: “Công chúa Chiêu Chinh được phong Thần sắc thời Nguyễn với mỹ tự Trinh Uyển Tôn thần”, càng chứng minh vị thần này là Thiên thần)
22-
Làng Neo thuyền nan
Làng An đóng cối
Làng Đới cấy rẽ
(Đây là một số ngành nghề của tổng Văn Hòa xưa thuộc huyện An Lão. Từ đầu thế kỷ XX thì tổng này được cắt về phủ Kiến Thụy, sau 1945 là huyện Kiến Thụy. Riêng làng An Áo viết tắt là An, thời cách mạng được cắt về xã An Thái, huyện An Lão có nghề đóng cối xay từ xa xưa và sau này làm thêm nghề vàng mã khá nổi tiếng. Còn làng Hòa Neo, gọi tắt là Neo, thời cách mạng là Hòa Liễu, gọi tắt là Liễu thuộc xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy có nghề làm và sảm thuyền nan khá nổi tiếng. Ngoài ra làng Neo nơi đây có lễ hội Minh Thề khá đặc sắc. Hay làng Kim Đới gọi tắt là Đới, tên Nôm là Ngò, xưa thuộc tổng Văn Hòa, thời nay thuộc xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy có nhiều người làm nghề cấy rẽ)
NGỌC TÔ (Sưu tầm)
(Còn nữa)

