/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

THƠ VĂN BẠN BÈ

AO LÀNG

Sang giêng hai ấm áp, lại thêm trưa chiều trời hưng hửng nắng vàng. Bỗng làm tôi nhớ tới những cái ao làng với không khí rộn ràng của đám tát ao ngày ấy.

AO LÀNG

Tản văn của CAO NĂM

Sang giêng hai ấm áp, lại thêm trưa chiều trời hưng hửng nắng vàng. Bỗng làm tôi

nhớ tới những cái ao làng với không khí rộn ràng của đám tát ao ngày ấy.

 Ngày ấy, làng tôi đi dọc con đường cái chốc chốc lại gặp những cái ao, mà vào

mùa này nước chỉ sâm sấp, chứ không mấp mé ngấn bờ như mùa mưa tháng sáu. Những

cái ao nằm rải rác bên đường cái như tô thêm vẻ mềm mại, duyên dáng của nét làng quê

“chôn nhau cắt rốn”. Bởi ao nào cũng như ao nào, trên bờ thường được trồng những

khóm tre cao vút, bốn mùa kĩu kịt tiếng tre đưa như khúc nhạc đồng quê, mà dẫu đi đâu

mới đặt chân về đầu làng, nghe tiếng tre bờ ao đung đưa kĩu kịt đã thấy lòng dịu êm mát

rượi. Rồi cũng ao nào như ao nào, phía bờ gần đường làng đi lại đều có cái cầu xây bằng

gạch chỉ, hoặc bắc bằng hai, ba cây tre cây cau áp vào bờ đường, để người làm đồng về

có chỗ rửa chân tay, cày cuốc. Cầu ao cũng như giếng làng, là nơi ngày ngày người trong

xóm ngoài làng mỗi khi đi làm đồng về rửa ráy chân tay, sa mẻ rau, giũ mớ cỏ là lại được

dịp tở lở nói cười, thôi thì từ chuyện nhà đến chuyện đồng, vui buồn cứ tô ha tô hô giữa

thanh thiên bạch nhật, chứ chả cần ý tứ giữ gìn với ai nữa.

lặn ngụp, giả làm thuồng luồng đuổi bắt nhau thỏa sức. Bởi ao làng tôi phần nhiều chỉ để

thả cá, chứ tôi nhớ là hầu như không có ao nào thả bèo tây bèo ta gì sất. Mà đã thả cá là

nước ao lúc nào cũng sạch, quanh năm chỉ một màu nước nhờ nhờ xanh, thậm chí có ao

mặt nước trong xanh đến mức, những hôm trở trời từng đàn cá mè, trắm, ngạo, trôi nối

đuôi nhau tung tăng bơi dạo, đứng trên bờ có thể đếm đầu từng con được. Những buổi

như thế, không chỉ đám trẻ, mà cả người lớn, ông già bà cả, ai đi qua cũng không lỡ bước

chân, đều dừng lại ngắm nhìn đoàn vũ ngư hoan ca trên mặt ao lăn tăn gợn sóng. Làng tôi

xa sông biển, nên hầu như ao nào cũng được giữ gìn sạch sẽ, bởi ngoài nuôi cá, nhiều cái

ao làng còn là bến tắm không chỉ của đám trẻ, mà còn là của cả người lớn. Nhất là cái ao

ấy lại gần đường cái và có cầu gạch xây tam cấp nữa thì thôi đấy, những buổi chiều hè

không hôm nào không đông nghìn nghịt, không chỉ đám trẻ mà cả anh chị thanh niên và

ông bà nhàng nhàng cũng lấy cầu ao làm bến tắm, làm nơi gặp gỡ sau những giờ phút

lưng bán đất, mặt bán trời, chân vùi trong nước. Có những buổi chiều người đi làm về

đông, bến tắm-cầu ao đông nghịt người rửa ráy, tắm táp, nhưng tuyệt nhiên không ai

tranh giành ai, người đến trước cứ xuống bến trước, người đến sau xuống bến sau, nhiều

khi còn đứng trên bờ chờ người dưới bến tắm rửa ráy xong, lên, mới xuống. Bến tắm-cầu

ao vì thế, như một hình ảnh thu nhỏ về sự ứng xử chan chứa tình làng nghĩa xóm giữa

những người tối lửa tắt đèn có nhau, mà giờ đây dù đi xa năm cùng nửa mới trở lại quê

nhà, nhưng bến tắm-cầu ao làng vẫn nằm sâu trong ký ức nồng ấm hương quê tuổi thơ tôi.

nắng vàng, là tôi không thể không nhớ tới không khí rộn ràng của những đám tát ao, bắt

cá. Ra giêng ngày rộng tháng dài, lại thêm nước ao cạn rọt phơi cả cầu, thì thôi đấy,

không ai bảo ai, những nhà có ao lại huy động quân gia gầu dây, gầu sòng thì thũm tát ao.

Ao nhỏ thì tát đẫy ngày hay sang non trưa nửa chiều là xong, nhưng ao to có khi tát một

ngày không xong, phải sang ngày hôm sau mới bắt được cá. Nhưng tát lâu hay chóng

cũng đều phải tính làm sao bắt cá ao lên kịp mang đi chợ bán khi cá vẫn còn tươi dẫy

đành đành, chứ cá ao mà ươn đuỗn đuồn đuột thì thôi đấy, chỉ còn nước bán tống bán

tháo đi mà về. Thế nên những đám tát ao thường là tính kỹ càng lắm, hợp tác với nhau

chặt chẽ lắm, nay nhà này tát ao cần bao nhiêu người, đổi công cho những nhà nào đều

hỏi han, bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau cả. Nên cứ cữ rằm tháng giêng trở ra, nồm

nam nổi lên, trời càng về trưa càng hửng nắng vàng thì thôi đấy, như có sự sắp đặt từ

trước, hết nhà này đến nhà khác, dù có ao to hay ao nhỏ cũng thì thõm gầu dây, gầu sòng

tát ao, bắt cá. Nói tát ao bắt cá là mới chỉ nói một việc thu hoạch “chiến lợi phẩm” trong

Những cái ao làng cũng còn là nơi đám trẻ thơ tôi tha hồ tung tăng bơi lội,

Nhưng nhớ đến ao làng những ngày giêng hai, trưa chiều lại hưng hửng

ao, chứ thực, tát ao cũng còn một việc không thể bỏ qua, đấy là dọn ao lấy bùn đổ lên gốc

cây cau, cây vải, vườn chè, khóm chuối trong vườn, bờ ao mà nhà nào có ao cũng coi đấy

là một “sản phẩm” vô gía do ao đem lại. Bởi những cái ao ở làng phần nhiều hứng nước

tự nhiên từ khắp các nhà trong ngõ gần xóm xa đổ ra, năm nào mưa nhiều thì nước trong

xóm ngõ đổ ra nhiều, và nước đổ ra càng nhiều thì rác rưởi, đất màu, và cả cát sỏi nữa,

cũng đổ ra ao càng nhiều. Những thứ mà ngày nay gọi là “chất thải” ấy, lưu cữu trong ao

quanh năm, tạo nên một tầng bùn sâu tới bốn, năm mươi phân, thậm chí có ao thuận

nguồn thì bùn còn dầy tới hàng mét. Bùn ao là một loại phân hữu cơ “đắc dụng”, mà một

thời không người nông dân nào không mơ có ít bùn ao dâng vườn, đổ ruộng cải tạo đất.

da diết vẫn là cảnh bắt cá, hôi cá tát ao. Mỗi khi làng có đám tát ao thì thôi đấy, dẫu đang

đi học cũng ngơm ngợp hết giờ là ù té chạy về, sớm muộn mặc, cứ phải qua chỗ tát ao

xem sắp được bắt cá chưa đã. Còn như ở nhà thì dẫu bố mẹ, anh chị có việc gì sai bảo thì

cứ là gào đến rát họng cũng còn lâu mới rời được đám tát ao để về. Bởi chỗ tát ao tưởng

chỉ thì thà thì thọp cái gầu đung đa đung đưa, chụp xuống múc lên từng gầu nước tung

bọt trắng xóa thế thôi, nhưng lại như có hồn cốt sao đấy, mới chỉ nghe tiếng gầu múc

nước thì thà thì thọp đã thấy lòng nao nao dào dạt theo gầu nước múc lên đổ xuống ào ào.

Nên không cứ trẻ thơ tôi, mà đến những ông già bà cả và anh chị thanh niên ai ra xem,

hay có việc đi qua đám tát ao, cũng không thể không dừng lại xem tát ao một chốc một

lát, thậm chí có người ngồi trên bờ xem tát ao đến quên cả việc nhà. Đám tát ao như chỗ

gặp gỡ thân tình giêng hai sau Tết của người làng, bởi cũng chỉ có ở đấy, người già người

trẻ mới có dịp trao đi đổi lại những lời thẳng thắn cởi mở về cách thả cá, nuôi cá, vệ sinh

ao, giữ nước trong ao ra sao cho hợp với từng loại cá…Nhưng đấy là chuyện của người

lớn, còn bọn trẻ thơ tôi vui thú với đám tát ao lại là khi nước ao đã cạn, chủ ao đã bắt cá

vãn, thì dù có cho hay không những người đi hôi ao cũng cứ ào xuống hôi cá tôm, cua ốc,

thôi thì gặp con gì bắt con ấy. Nhưng đám trẻ hôi ao cũng tinh lắm, cứ lặng lẽ đứng nhìn

như cắm xuống mặt bùn lõng bõng, hễ thấy chỗ nào bùn hơi động đậy là đưa tay vồ ngay

tắp lự. Thể nào cũng được con cá rô, giếc, trắm hay chuối, lươn, nhệch, thường có biệt tài

chúi trong bùn nhưng cũng không thể chúi mãi được, vì bàn chân của những người bắt cá,

hôi cá quần đảo đến biến tầng bùn ao dầy hàng thước thành nhão nhèo, lõng bõng bùn

nước thì đến cá nào rồi cũng phải ngoi lên. Mỗi khi thấy có chỗ bùn động đậy là thôi đấy,

bất kể bùn bắn tung tóe cũng vội nhào ngay đến vồ tay xuống bùn khua khoắn cho kỳ bắt

được con cá lên mới thôi. Đi hôi cá tát ao thích nhất những lúc nhìn thấy tăm cá nổi lên

mặt bùn lõng bõng nước, tức thì ba chân bốn căng lao nhanh đến, quên cả lấm láp, rét

mướt. Bây giờ nghĩ lại những lần đi hôi cá ở đám tát ao, tôi vẫn thấy trong lòng rạo rực

háo hức không khác gì xem trận siêu cúp bóng đá châu Âu. Nhưng đấy là chỉ nghĩ lại thế

thôi, chứ bạn ơi, Tết rồi tôi về làng, đúng chỗ cái ao ngày ấy trẻ thơ tôi mỗi độ giêng hai

lại ra hôi cá tát ao, thì ngày nay đã sừng sững những cái nhà xây một tầng, hai tầng, thậm

chí ba, bốn tầng hình ống trông như những cái lô cốt. Còn những cái ao, thì đi cả làng họa

hoằn mới gặp, nhưng dẫu có còn thì bói cũng không ra ao nào có bờ tre đung đưa kĩu kịt

khúc nhạc đồng quê, với chiếc cầu xây bằng gạch chỉ có bậc tam cấp cho người đi làm

đồng về rửa ráy chân tay, cày cuốc hay sa mớ rau, giũ mẻ cỏ như ngày xưa nữa. Đến bờ

ao bây giờ cũng được “bê tông hóa” tất tần tật rồi.

Dẫu vậy, thì giờ đây dù có đi xa, mỗi khi nghĩ về nơi chôn nhau cắt rốn, trong tôi

vẫn êm đềm ký ức về những cái ao làng với đám tát ao, hôi cá ngày nào./.

______________________________

Đ/C: CAO NĂM

Tổ 44, Ngõ 258 Đà Nẵng, Ngô Quyền, Hải Phòng;

ĐT: 0912926613; Email: nam3564856@gmail.com

Nhưng tuổi thơ tôi nhớ về những đám tát ao làng độ giêng hai thì cái nhớ