VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
văn xuôi
Gia phả
Dù là Vọng Hải Tự, một dấu tích. Hoặc có thể một di vật nào đó giữa vùng đảo bốn phía sóng đập chăng?Gia phả
1.
Cỗ xe ngựa lọc cọc chạy suốt hai ngày liền. Bầu trời thế nào tôi không hề hay biết. Chỉ được phép ngồi yên trong xe ngựa, có thức ăn nước uống đầy đủ nhưng không được hé mảnh rèm che cửa sổ để ngó nghiêng bên ngoài.
Tôi ghét những chuyến đi như thế.
Ngày trước, tôi cũng từng ra ngoài bằng xe ngựa rất nhiều lần, thậm chí còn được tự cưỡi ngựa ra ngoài. Những lần đó, dù đi cùng anh trai, tôi tha hồ được ngắm bầu trời của mình, tha hồ bảo người đánh xe dừng lại ở bất cứ chỗ nào tôi muốn. Nhưng trên chuyến xe này, tôi không có quyền ra lệnh. Trên chuyến xe này, tôi đành ngồi im dưới quyền anh trai.
Chuyến xe định mệnh.
Chuyến xe này định đoạt cả số phận và tính mạng của chúng tôi. Không những chỉ riêng anh em tôi mà còn rất nhiều người khác, của dòng họ tôi.
Tôi không rõ cụ thể là bao nhiêu người. Tôi chỉ biết tất cả đều nghe theo kế hoạch của anh trai tôi. Đi liền như thế và dừng nghỉ tại một điểm nhất định nào đó. Sau lưng chúng tôi, luôn là những cuộc rượt đuổi.
Tiếng gió rít bên ngoài, như xoáy sâu vào cõi lòng tôi, xoáy sâu vào điều dang dở tôi đang có.
2.
Chiều nay biển đục.
Kì lạ. Tôi đã sống ở đây được gần hai năm, chưa bao giờ thấy hay chưa bao giờ để ý thấy biển đục nhỉ?
Những con sóng đập mãi vào mấy vách đá, muốn nói điều gì đây? Sóng dù dữ hơn ngày thường, cuối cùng cũng tan bọt trắng xóa mà trở về với biển. Còn bám gì những hạt muối li ti trên vách đá? Còn dạt trôi gì những mảnh ốc chỉ còn trơ vỏ bám trụ vào đá?
Gần hai năm, tôi sống ở xứ sở xa tít quê hương. Đảo của những người bình dị.
Gần hai năm, nỗi sợ hãi ban đầu của tôi đã được yên ủi giữa những người hồn hậu. Làng đảo hồn hậu.
Tôi thả chân mình xuống đầu những con sóng. Đầu sóng khác hẳn ngày thường, không trắng xóa giữa vùng nước xanh rì mà bạc hẳn cái bạc của mái tóc người già. Mái tóc bạc của cha tôi như thế nào nhỉ? Tôi không hình dung nổi khi cha tôi tóc bạc thì sẽ như thế nào. Đã lâu lắm rồi tôi không gặp người. Đã lâu lắm rồi những người theo tôi không dám hé răng nhắc đến câu chuyện về cha tôi. Cha tôi có lẽ mãi chìm đi, nằm yên trong ký ức ngày bé của tôi, lúc mẹ tôi còn sống.
Nước biển hôm nay không xanh thẳm mà đục màu phù sa. Nước biển đục không đem lại cảm giác mới mẻ hay hào hứng cho tôi, mặc dù nó vô cùng lạ lùng đối với cuộc sống gần hai năm qua của tôi trên đảo. Nước biển đục khiến nỗi nhớ trong tôi trào lên.
Nước biển đục như sông Nhị Hà, tôi không ngỡ ngàng, mà hoàn toàn thất vọng. Tôi vốn không thích biển. Tôi càng không thích biển đục một cách sao chép sông. Tôi không bao giờ thích sống ở biển bằng việc sống trên núi. Nhưng anh trai tôi không chọn núi cho một cuộc đời an toàn của tôi và cả dòng họ. Anh tôi đã chọn ra khơi.
Tôi để mặc ý nghĩ miên man trong đầu với những ký ức về vùng đất liền nhiều nước ngọt, với những gia trại có nguyên khu đồi cơ man những rừng thông, đồi chè, lượn lờ bên dưới là con suối. Tôi thèm một tiếng chim nơi đất liền, thèm một tiếng hoẵng kêu ngơ ngác trong đêm như hồi còn ở gia trại họ Đinh. Tôi nhớ núi rừng. Tôi nhớ đất liền. Tôi nhớ hồ Dâm Đàm, nhớ sông Thiên Phù. Tôi khao khát được mơ màng theo làn gió đung đưa đám hoa lau giữa bãi sông Thiên Phù.
Biển mênh mông, tôi kiếm đâu ra một dòng sông? Biển mênh mông, tôi nhớ những ngày tháng bị cấm trong khuê phòng để học thêu thùa may vá, dệt vải. Tôi thèm cảm giác khó chịu bởi bốn bức tường rào hơn là cảm giác khó chịu bởi bốn phía là biển. Bờ xa tít tắp. Quê hương tôi ở phía nào, mãi tận hướng Tây Bắc?
Tôi thả lỏng suy nghĩ mình theo làn sóng đang mơn man dưới bắp chân trần trụi. Sóng biển ôm trọn tôi, vỗ về tôi. Sóng biển giúp tôi hình dung ra tiếng gió rì rào của đại ngàn trên núi rừng xa thẳm của gia trại họ Đinh. Nơi đó có Trần, tôi nhớ chàng.
Cát dưới chân tôi đang lún dần, tạo những hố sâu dễ chừng lọt thỏm một cái chậu hoa ngay sau gót chân. Bàn chân tôi đang bị trôi tuột giữa muôn vàn sóng bạc. Những con sóng xô nhau, duềnh lên thật cao rồi đổ ập xuống. Lớp lớp sóng tấp vào bờ, cát có bao giờ biết đau? Có phải cát đã quá quen với những lần bất ngờ của sóng nên phải luôn chuẩn bị sẵn tâm thế đón nhận? Dập duềnh theo sóng, tôi nhớ đến nhịp lọc cọc của cỗ xe ngựa năm nào, tôi nhớ đến cảm giác bồng bềnh trên võng trong hoa viên phủ gia, và ánh mắt hạnh phúc của cha tôi khi đón tôi từ võng đung đưa. Tôi mơ hồ hình dung ra mái tóc của cha. Tóc người giờ này chắc đã bạc trắng. Nhưng kìa, tại sao một vùng nước biển loang loáng màu đỏ tươi? Những dải tơ mềm trong từng con sóng bạc bỗng dưng lênh loáng máu. Sóng bạc bị nhuộm đỏ bởi màu máu. Tóc bạc cha tôi? Cha đang gọi tôi? Có ai đó đang gọi tôi?
Mộng Cầm!
Tôi vùng vẫy cố thoát khỏi đám sóng bạc loang đỏ đang đuổi theo phía sau. Có ai đó đang gọi tôi. Mộng Cầm, quay về đi con! Mộng Cầm, sóng dữ!
Tôi cảm giác mình bị nghẹt thở vô cùng bởi tức ngực, mắt đã cay xè, đầu lưỡi mặn chát, nước sặc sụa đầy miệng. Đầu óc tôi tối tăm không một chút ánh sáng mặt trời. Rồi xuất hiện thứ ánh sáng lờ mờ, hư ảo như ánh sáng của đèn kéo quân rọi xuống hồ Dâm Đàm những đêm Nguyên Tiêu thuở còn ở Thăng Long. Có ai đó gọi tôi. Mộng Cầm, tỉnh lại đi! Bóng ai đó rất quen đứng từ phía phát ra ánh sáng mờ ảo, vẫy tay như gọi tôi đi về hướng đó. Hương thơm dìu dịu quen thuộc vảng vất. Là Trần?
Tôi phun ra bao nhiêu là nước, đã cảm thấy dễ chịu hơn. Mắt tôi bị chói bởi ánh nắng mặt trời. Tôi nhìn quanh tìm Trần. Trần đâu? Trần ở đâu?
Mộng Cầm!
Đôi mắt hiền lành của Nhiên hiện ra rõ hơn dưới ánh nắng. Nhiên là huynh đệ kết bái với anh trai tôi, nhận chăm sóc tôi dưới sự ủy thác của người anh kết nghĩa. Lâu rồi Nhiên không gọi tôi như thế, tôi khẽ mỉm cười. Nhiên đang rất lo lắng, nâng đầu tôi lên. Tôi cười xòa, định vùng dậy để chạy nhảy cho Nhiên thấy là tôi không sao. Nhưng cơ thể tôi đã quá mệt mỏi, rã rời trong đôi cánh tay vạm vỡ của Nhiên. Nhiên đỡ tôi dậy, ngồi tựa vào một tảng đá cao cho đỡ nắng. Tôi dựa vào Nhiên.
Biển vẫn đục. Những con sóng bạc vẫn tung mình vào những tảng đá bên bờ biển, lan lách mãi vào bãi cát. Tôi không thấy khoảng sóng có màu máu nữa. Không còn những con sóng bạc loang đỏ. Xa khơi, không hề có một bóng chim.
Tôi lao ra khỏi Nhiên, chạy đến bãi cát ăn sâu vào đảo, vốc lên một nắm cát. Kì lạ. Cát không trắng khô, không thô mà rất mịn và mềm, có lẽ là dẻo. Cát nâu mịn. Tôi hiểu rồi. Tôi đã hiểu vì sao biển đục. Và tôi đã nhận ra điều khác biệt.
Mỗi ngày tôi đều ra một góc biển hướng mắt về quê hương, mong tìm bóng dáng ai quen thuộc. Nhưng biển mênh mông tít tắp. Tôi cũng chạy đến rất nhiều góc biển khác nữa, chỉ để muốn tìm lại nơi anh trai tôi đã lên con tàu có giong cánh buồm lớn đi mãi đi mãi. Nhưng góc biển này tôi chưa từng đặt chân đến. Tôi đã đủ tỉnh táo để nhận ra một góc biển khác hẳn những góc biển khác trên vùng đảo.
Tôi sung sướng khi nhớ đến Trần. Tôi bỏ mặc Nhiên và chạy về làng đảo tìm lại Trần. Tôi lật tung mớ hành trang ít ỏi kể từ ngày đến làng đảo này và tìm Trần ở trong đó. Trần của kỷ niệm ngày tôi còn hạnh phúc ở gia trại họ Đinh. Tôi đã đem Trần theo đến vùng đảo này mà tôi không nhớ. Tôi sẽ giữ cho Trần sống mãi trên đảo cùng tôi, chờ ngày trở về đất liền.
3.
Trần đến bên tôi, lặng lẽ đi cạnh mà không nói gì. Nét mặt Trần nhiều lúc đã lộ rõ âu lo đến thảng thốt. Phải chăng Trần sợ ngày ta không còn trên cõi đời này đang rất gần? Trần thốt nhiên nắm chặt tay tôi, khiến toàn thân tôi bủn rủn. Nàng không được nói gở như thế!
Rồi Trần lấy trong tay áo ra một chiếc túi nhỏ xinh, hương dìu dịu thoang thoảng, ngập ngừng đưa tôi.
Trần tặng ta túi thơm ư? Hương gì kỳ lạ thế?
Không phải túi thơm. Túi này chính là Trần đó. Trần đã hứa, sẽ bên nàng đi cùng trời cuối đất, sẽ luôn đem đến sự no đủ cho nàng, nàng còn nhớ không?
Tôi hờn dỗi quay đi. Tôi đã nghĩ Trần giả dối. Trần hứa sẽ bên tôi, thế mà đem tặng tôi một túi thơm rồi bảo đó chính là Trần mà đủ ư? Tôi không thèm quay lại nhìn Trần cho đến khi sau lưng tôi, khúc sáo “Rong ruổi” của Trần vang lên. Khúc sáo mà tôi vẫn thích. Khúc sáo do tôi đặt tên, do Trần sáng tác. Đó là kỷ niệm của lần đầu tiên tôi dám trốn khuê phòng mà cùng Trần cưỡi ngựa lên ngọn đồi của gia trại họ Đinh luyện võ, và theo chúng tôi mãi về sau. Chính khúc sáo khiến tôi không thể dứt Trần được. Tôi dừng bước chân, nghe lòng mình xao xuyến, lại không thể dứt ra được nữa.
Trần mở túi nhỏ, hương tỏa ra dìu dịu, xuyến xao.
Những hạt giống này, nàng giữ lấy bên mình, đừng để mất đi.
Hạt giống ư? Vậy còn hương thơm gì kì lạ vậy?
Túi này được gia công tỉ mỉ từ vỏ một loại cây trên núi Sương mãi ở cõi Bắc. Núi quanh năm sương mù, thêm hương thơm từ các loài tầm gửi thân cây, tạo nên vỏ cây có hương đặc biệt. Túi làm từ vỏ cây này có thể chống ẩm cho vật đựng trong túi. Đây là những hạt giống...
Sau lần ấy, gia đình tôi bị xáo trộn kinh khủng. Anh trai dẫn đám thân tín khoảng mấy trăm người, đưa tôi tách xa ngôi nhà tuổi thơ. Tôi không còn được nhìn thấy cha từ đó. Trước khi đi xa, tôi có gặp cha lúc đi qua nhà từ đường. Tôi có chào người, muốn hỏi han người thật nhiều nhưng ánh mắt cha lúc đó sao tôi thấy lạnh đến sởn gai ốc, đến nỗi tôi không dám thốt lên lời nào. Lúc ấy tôi mang tâm thế sợ cha như hồi còn bé. Tôi giận mình không nhớ lúc ấy mái tóc cha tôi như thế nào, đã bạc hay chưa?
Tôi không được gặp Trần trước khi lên chuyến xe ngựa định mệnh. Nhưng tôi giữ khư khư bên mình túi thơm mà Trần tặng hôm nào. Tôi nâng niu như thể túi thơm đó chính là Trần vậy. Tôi gìn giữ túi thơm như gìn giữ thanh kiếm Thanh Mai từ tay anh trai.
Ngồi trong xe ngựa không được hé cửa, ló đầu ra ngoài nhưng tôi có khả năng đoán hướng chính xác. Số lần ánh nắng chiếu vào hai bên cửa sổ của xe ngựa lặp lại rất nhiều trên chuyến đi, và nhờ gió, tôi đoán chính xác là xe ngựa đưa chúng tôi về phương Nam. Quê hương lùi lại sau lưng, những ngày nóng nực đôi khi cũng khiến tôi khó chịu trên đường đi. Nhưng nét mặt của anh trai tôi được giãn ra rất nhiều. Anh có vẻ hài lòng với quyết định phương hướng của mình. Tôi không phản ứng vì đã phó mặc.
Cuộc chạy trốn bằng xe ngựa cuối cùng phải dừng lại. Xe ngựa không còn an toàn nữa. Anh trai tôi sắm sửa những đôi quang gánh và chất hết những đồ dùng cần thiết lên đó. Mọi người cùng gánh, mỗi người đỡ đần nhau một quãng. Chúng tôi phá đồng hoang sơ, phá rừng rậm rạp, men theo những con sông và đi mãi ra cửa biển. Vai tôi bỏng rát, những ngày đầu tập làm quen là một thường dân.
Lúc an phận trên con thuyền có cánh buồm giong cao thì tôi mới giật mình thán phục anh trai. Số người của chúng tôi có thể lên thuyền ra biển là sáu ngàn người, chia làm ba hạm đội. Những con thuyền lớn có cánh buồm cao đến nỗi tôi ngước mãi không nhìn rõ được con chim hải âu vừa bay tới đang đậu ở đâu trên cánh buồm. Cứu được rất nhiều người trong họ tộc, tôi tự hào vì anh trai, nhưng thắt lòng khi nghĩ về cha. Cha ở lại hi sinh để sáu ngàn người được bảo toàn tính mạng? Trần thì sao? Liệu Trần có tìm tôi? Phụ thân Trần có cho chàng đi tìm tôi? Lúc này chàng ở đâu?
Những ngày lênh đênh, có lúc chúng tôi khát nước tưởng như gần chết giữa biển mênh mông thì trời đổ mưa. Anh trai tôi chỉ đạo mọi người cùng hứng nước mưa dự trữ.
Nhờ có mưa, tôi mới nhận ra anh trai tôi cũng khóc. Anh ngồi một mình đầu con thuyền, giữa trời mưa và khóc khi mọi người đều đã ngủ say trong nhà thuyền. Tôi không dám lại gần anh, dù rất muốn đặt bàn tay bé nhỏ của mình lên vai anh, hoặc ôm anh thật chặt. Nhưng tôi đã chỉ đứng từ trong nhà thuyền nhìn ra. Nam nhân thường rất hiếm khi khóc.
Lênh đênh giữa biển khơi thiếu nước ngọt có lẽ chưa là gì so với cơn bão ập đến, đánh xuống những con người khốn khổ chạy trốn giữa biển khơi là chúng tôi. Thêm bao nhiêu người hi sinh, ốm đau, thêm bao sự mất mát. Có khi vì cơn bão mà thay đổi cả một số phận tôi khi anh trai tôi buộc phải ra lệnh ghé đảo tránh bão. Tôi bị say sóng suốt từ ngày lên thuyền, ốm dặt dẹo như một con cá thiếu nước.
Người phụ nữ có mái tóc xoăn tít, trên đầu quấn một mảnh khăn bỏ lửng sau lưng, làn da mặt nâu nâu ghé sát tôi, cười rất tươi để lộ hàm răng trắng.
Cô nương, uống thuốc đi chóng khỏi!
Bàn tay gân guốc bưng lên bát nước thuốc sánh đen, tôi thấy ghê ghê ở cổ họng, quay mặt đi buồn nôn. Anh trai tôi ngồi cạnh, vỗ về.
Ngôi làng đảo ngăn nắp với những căn nhà mái lá dừa đan kín giống nhau, những con người có mái tóc xoăn và làn da không trắng như người Thăng Long. Bát cháo cá nóng hổi đầu tiên múc ra từ một nồi cháo lớn được bưng đến cho tôi. Bé gái nhoẻn cười để lộ lúm đồng tiền dễ thương đặt bát cháo xuống chiếc giường tre tôi đang ngồi, thấy tôi mỉm cười lại thì bẽn lẽn chạy biến.
Được nửa tuần trăng, anh trai tôi đã có quyết định mới.
Một ngày nhiều mây, biển nhẹ nhàng sóng và vẫn xanh thẳm ngoài xa, anh trai tôi lại ra khơi. Những con thuyền có cánh buồm lớn giong cao đã đưa anh trai tôi tiếp tục hành trình đi về phía Đông Bắc của biển. Anh nói ở xứ sở nào đó có giống nhân sâm tốt lắm, làm thuốc chữa được bách bệnh, tăng cường sức khỏe rất tốt. Anh muốn đến đó tìm hiểu và có cơ may thì tìm cách chuyển về Thăng Long cho người thân tín lưu trồng. Anh bảo với tôi, từ làng đảo này chỉ cần vượt biển về hướng Tây Nam là có thể cập bến đất liền nước Chiêm Thành. Ở Chiêm Thành, chúng tôi có họ hàng ở đấy, đợi thời trở về Thăng Long cũng dễ. Những con thuyền có cánh buồm lớn lại ra đi. Anh để lại hai trăm gia thuộc trên làng đảo bé nhỏ cùng tôi và Nhiên.
Nhiên vẫn là Nhiên, tôi không còn là Mộng Cầm. Tôi là Lam. Nhưng Trần thì mãi mãi.
4.
Tôi mang thanh kiếm Thanh Mai cùng với Trần chạy nhanh ra góc biển có Nhiên đang đứng.
Ngày anh trai tôi thực hiện hoài bão vượt biển cả tìm đến vùng đất mơ và gưi lại tôi trên làng đảo, tôi mới được gặp Thanh Mai.
“Mộng Cầm! Đây là hai thanh bảo kiếm gia truyền, Thanh Trúc và Thanh Mai. Đã đến lúc Thanh Mai thuộc về em. Hãy nhớ, nó không chỉ là sinh mạng của em mà còn là sinh mạng dòng tộc! Hai trăm con người ở lại cùng em trên đảo này, tồn vong đều ở quyết định của em. Cũng như ta với Thanh Trúc này.”
Tôi tuốt Thanh Mai khỏi vỏ, lần đầu tiên. Thanh kiếm sáng lóa trước ánh mặt trời loang loáng hắt lên từ biển. Tôi biết tìm chỗ cho Trần trú ngụ, bằng cuộc tìm kiếm của Thanh Mai. Bãi biển với đám cát nâu mịn. Tôi có thể hình dung những thớ thịt cát tươi rói đầy màu mỡ hiếm hoi đầu lưỡi Thanh Mai đang trở mình đón nhận Trần giữa vùng đảo xa xôi có tôi.
Tôi đặt tên bãi biển này là Vọng Cầm.
5.
Thanh Mai trên tay tôi vẫn sáng lóa như ngày đầu mới gặp. Trần vẫn luôn bên tôi cùng với Thanh Mai.
Mỗi mùa thu hoạch, tôi giữ lại ít hạt giống cho vào túi thơm. Tôi muốn giữ Trần mãi mãi bằng cách đó. Tôi muốn Trần mãi mãi bên tôi bằng cách đó. Chàng sẽ luôn bên tôi như thế.
Tôi không giữ Vọng Cầm cho riêng mình. Tất cả mọi người trong làng đảo đều biết đến Vọng Cầm, và họ cùng tôi gieo trồng những hạt giống. Những hạt đen tròn mẩy căng mọng da, rồi những mầm non mơn mởn, ngọn lá xanh rì. Càng lúc, tôi càng điều chỉnh được năng suất cho hạt giống với sự giúp đỡ của Nhiên. Trần bên tôi như thế, chàng đã giữ trọn lời hứa. Chàng luôn đem đến sự no đủ cho tôi.
Những con sóng bạc đầu thỉnh thoảng rơm rớm máu lại ám ảnh tôi trong những giấc mơ. Lẫn vào đó là ánh mắt của cha tôi trong lần cuối cùng tôi nhìn thấy người. Ánh mắt cha tôi bị che khuất bởi đám tóc bạc rủ xuống hai bên thái dương, dòng nhựa đỏ của tóc bạc chảy xuống? Tóc bạc cha tôi che khuất ánh mắt người hay sóng bạc ở Vọng Cầm? Ánh mắt mà tận giờ này tôi mới cảm nhận được sự đớn đau nhưng đầy cả quyết của cha. Không phải là ánh mắt lạnh lùng đến nỗi khiến tôi sợ hãi. Tôi giận mình tại sao lúc đó không chạy lại ôm chặt lấy người lần cuối? Tôi giận mình lúc đó bắt gặp ánh mắt cha thì sợ hãi đến độ không dám nhìn sâu vào mắt người.
Nhưng, nếu tôi ôm người lúc đó thì sao? Nếu tôi dám nhìn thẳng và nhìn sâu hơn nữa vào mắt người lúc đó thì sao? Thì giờ này hẳn mấy ngàn con người bao gồm gia nhân và dòng tộc tôi chắc gì đã thoát nạn. Chắc gì giờ này tôi còn có thể mang Trần ra đến tận vùng đảo heo hút hướng tầm nhìn về quê hương mỗi ngày?
6.
Trần đã đi rồi, Lam! Hãy nói lời vĩnh biệt Trần đi!
Mắt tôi nhòe đi, quả đầu mùa bổ ra một màu đỏ tươi. Lớp vỏ xanh mịn đến lạ kỳ, thế mà bên trong đỏ thắm. Tôi nhớ Trần cồn cào. Quả đầu mùa ngọt, như hương thơm dìu dịu từ túi thơm Trần tặng tôi.
Đừng chỉ giữ Trần trên đảo, hãy để Trần được ra khơi. Biết đâu nơi nào đó Trần tìm được Thanh Trúc, hóa làm một mà bảo vệ chủ nhân.
Nhiên vẫn thủ thỉ bên tôi lặng lẽ gỡ từng quả da xanh thẫm lên từ lòng cát. Nhiên đón những quả to và đẹp, khắc lên vỏ tên Trần, rồi lặng lẽ thả trôi biển mênh mông, ở phía Tây vùng đảo. Nhiên hiểu tôi.
Tôi khóc Trần nhiều hơn mình tưởng. Trần không giống họ tộc, luôn truy đuổi chúng tôi. Trần không những chỉ đường cho anh trai tôi chạy trốn mà còn ở lại tìm cách cản quân triều đình. Trần phạm tội phản bội dòng tộc. Trần phạm tội khi quân. Trần bị bắt. Dòng họ Trần coi nghĩa diệt thân. Tôi mất Trần? Tôi vĩnh viễn không thể gặp lại Trần bằng da bằng thịt. Bàn tay tôi lọt thỏm vào tay ai khi tay Trần ngày một tan biến dần vào cõi hư vô? Cái nắm tay rất chặt lần đầu tiên ấy, sao nỡ là cái nắm tay cuối cùng?
Một cánh chim nhạn đưa tin bay về từ phương Bắc. Cánh chim đã bay qua bao thảo nguyên mênh mông, bao sa mạc nóng bỏng và rét buốt, bao dặm biển tưởng như không có đất liền? Cánh chim mang thư của anh trai đến cho tôi.
Thanh Trúc và anh lập công lớn ở xứ người, thu phục được bao lòng người trên đất xa xứ. Người người quỳ rạp dưới chân anh như ngày nào thuở còn ở đất Thăng Long. Anh trai tôi đã cập bến nơi có loài nhân sâm kì diệu. Anh tôi đã trồng được nhân sâm, còn biết bào chế thuốc chữa bệnh từ nó nữa. “Có khi, nhờ biển khơi mà ta trở thành Bạch Mã tướng quân nơi quê người. Dù không phải là xứ sở sinh ra, nhưng sẽ là xứ sở để ta yên nghỉ, và đời đời con cháu sẽ gìn giữ truyền thống quý báu của dòng dõi. Quan trọng không phải là nơi ta sống, mà điều quan trọng là ta phải sống thế nào để không hổ danh với tổ tiên dòng dõi. Nhiên là người tốt...”
Đã nhiều năm trôi qua, bức thư về đến tay tôi như thế. Tôi muốn hồi âm, kể cho anh nghe về bãi Vọng Cầm của tôi. Tôi muốn kể cho anh nghe về hai trăm người thân tín mà anh gửi lại đảo cùng tôi và Nhiên, giờ đây đều đã ổn định. Tôi muốn kể cho anh nghe rằng, tôi đã đem Trần cùng ra đảo như thế nào, và đâu đó, Trần trở về đất liền, hoặc biết đâu theo anh tới xứ sở xa xôi kia...
Anh trai muốn chính tôi cũng sinh ra những hậu duệ đáng được tự hào về nòi giống, chứ không hẳn chỉ ở hai trăm con người kia. Nhưng tôi không định thành thân. Tôi muốn vùng đảo có một ngôi chùa. Tôi muốn dựng lên một ngôi chùa gần bãi biển Vọng Cầm. Có lẽ là Vọng Hải Tự chăng? Siêu độ cho chúng sinh trên đảo, và nhớ đến Trần trên bãi Vọng Cầm cùng những hạt giống.
Nhiên vẫn lặng lẽ.
7.
“Năm 1226 (tức niên hiệu Kiến Trung thứ hai đời Vua Thái Tông nhà Trần), để bảo toàn tính mạng và lo việc thờ cúng tổ tiên, Lý Long Tường đã mang đồ thờ cúng, vương miện, áo long bào và thanh Thượng phương bảo kiếm truyền từ đời Vua Lý Thái Tổ cùng sáu ngàn gia thuộc qua cửa Thần Phù, Thanh Hóa chạy ra biển Đông trên ba hạm đội. Sau một tháng lênh đênh trên biển, đoàn thuyền gặp bão lớn phải ghé vào Đài Loan. Khi Lý Long Tường quyết định lên đường thì con trai là Lý Long Hiển ốm nặng nên phải ở lại cùng 200 gia thuộc. Trên đường đi tiếp đoàn thuyền bị bão dạt vào Trấn Sơn , huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây Cao Ly. Tương truyền rằng trước đó Vua Cao Tông của Cao Ly nằm mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lên, vì vậy ông lệnh cho chính quyền địa phương tiếp đón ân cần, và đồng ý cho Lý Long Tường ở lại dung thân.
Tại đây Lý Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi. Ông cho mở Độc thư đường dạy văn (thi phú, lễ nhạc, tế tự) và Giảng võ đường dạy võ (binh pháp, võ thuật). Học trò theo học rất đông, lúc nào cũng trên nghìn người.”
Tôi giật mình khi đọc được những dòng ghi chép mà tự mình tìm thấy trong quá trình tìm kiếm về tổ phụ. Qúa trình vượt biển của một cuộc chạy trốn, và cả số lượng người ở lại trên đảo xa xôi, rất khớp với các mốc thời gian được ghi trong gia phả dòng họ mà cha tôi nhất quyết bảo tôi phải cất giữ trước lúc người lâm chung. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi quyết tâm ra đảo một chuyến.
Cơn say sóng làm tôi không tài nào tỉnh táo để ngắm biển bình minh từ boong tàu. Một cảnh tượng tôi háo hức trước lúc ra đảo, để rồi tuột mất chỉ vì như thế.
Tôi mơ hồ đi theo tiếng gọi từ sâu thẳm tiềm thức, cùng những lời ghi trong gia phả. Tôi ra đảo để tìm lại báu vật gia truyền mà tổ tiên tôi đã từng gửi lại nơi nào đó ngoài vùng khơi xa. Nơi đảo xa tít, tổ tiên tôi đã từng sinh sống, đã từng truyền đời này sang đời khác trên vùng bãi từng có tên Vọng Cầm. Thanh kiếm gia truyền trong gia phả có tên là Thanh Mai ấy, đã giúp tổ tiên tôi chiến đấu trong quá trình chạy trốn để duy trì nòi giống. Thanh kiếm ấy, là nguồn sống đầu tiên của tổ tiên tôi, là sự bắt đầu cho những bãi dưa hấu được trồng tận ngoài biển khơi.
Tiếng chuông chùa văng vẳng, như vọng từ sâu thẳm lòng đại dương, dội lên thinh không cao vút rồi rơi xuống tan đi giữa khoảng biển mênh mông, hòa âm với sóng. Tiếng gõ mõ gần tôi hơn, cùng với tiếng chim líu lo trên vách tượng Phật. Hào quang từ tượng Phật trong ngôi chùa tỏa ra kỳ bí. Tôi không tin vào mắt mình nữa. Một người con gái áo dài trắng, suối tóc đen quay lưng về phía tôi đang giơ đôi tay đón lấy ánh hào quang rọi xuống từ tượng Phật trên cao. Chốc lát, ánh hào quang đó hiện hữu thành thanh kiếm trên tay người con gái. Chuôi kiếm có khắc cành hồng mai nở hoa rực rỡ. Tôi bồng bềnh như trôi trên mây trước cảnh tượng huyền ảo đó. Giật mình, tôi nhớ đến thanh kiếm Thanh Mai được ghi trong gia phả. Đôi chân tôi vội bước thật nhanh để đến gần hơn với điều tôi đang đi tìm kiếm. Cuống chân, tôi vấp phải bực cửa. Tôi choàng tỉnh, hóa ra là giấc mơ.
Do tôi đã không còn say sóng hay do boong tàu nắng ấm mà dường như tôi cảm nhận được ánh sáng chói lòa của thanh kiếm. Tôi biết mình đã đến rất gần. Dù là Vọng Hải Tự, một dấu tích. Hoặc có thể một di vật nào đó giữa vùng đảo bốn phía sóng đập chăng?
--
N.T.L
Theo vietvan.vn
Các tin khác
-
CON ĐƯỜNG ĐÃ CHỌN
-
KỂ LẠI MỘT GIẤC MƠ CŨ
-
CHUYỆN TRÒ VỚI NHẤT NGÀY SỬA NHÀ
-
Thổn thức gió cao nguyên. Truyện ngắn của Lại Văn Long
-
“Toả nhị kiều” Phiên bản mới – Truyện ngắn của Trần Thiên Hương
-
Mùa thu ánh lửa tình người
-
Hoàng hôn trên bờ sông Main
-
Suy nghĩ về giải thưởng truyện ngắn Báo Văn Nghệ 2022-2024
-
Lời thề sinh tử. Truyện ngắn của Phạm Thanh Thúy
-
Đất quê. Truyện ngắn của Kiều Ngọc Kim

