/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

TIN TỨC

NGUYỄN TỘC HẠ ĐỒNG

Khi đến Hạ Đồng (Cộng Hiền) được biết Nguyễn Tộc ở Hạ Đồng có nguồn gốc từ Thượng Đồng (An Hòa) tới và khi đến Hạ Đồng (An Hòa) lại được nghe nói...

                                              NGUYỄN TỘC HẠ ĐỒNG

 

     Vùng đất Vĩnh Bảo từ rất xa xưa thuộc Hồng Châu, quận Giao Chỉ. Đến cuối Trần đầu Hậu Lê (đầu thế kỷ XV) thì Hồng Châu chia thành Thượng Hồng và Hạ Hồng. Sang đời Quang Thuận nhà Hậu Lê (1460 – 1469) phủ Hạ Hồng có 4 huyện: Trường Tân (Gia Lộc), Tứ Kỳ, Thanh Miện và Vĩnh Lại (gồm Ninh Giang và Vĩnh Bảo) trấn Hải Dương. Năm Minh Mạng thứ IXX (1838) nhà Nguyễn cắt 5 tổng của huyện Tứ Kỳ (An Bồ, Viên Lang, Đông Tạ, Bắc Tạ, Can Trì), 3 tổng của huyện Vĩnh Lại (Đông Am, Thượng Am, Ngải Am) thành lập ra huyện Vĩnh Bảo (Theo Bách khoa toàn thư mở)

     Vào năm 1481, theo đề nghị của các quan lại, Vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497) lập 43 sở đồn điền với mục đích “Khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước” trên lãnh thổ Việt Nam, trong đó có sở Tây Tạ (Theo sách Việt sử thông giám cương mục). Mảnh đất Hạ Đồng – (Cộng Hiền ngày nay) gắn liền với sự hình thành và phát triển của vùng đất sở Tây Tạ, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Lúc đầu nơi đây là vùng hoang hóa, chưa có người ở. Năm 1687, khi 18 tuổi cụ Nguyễn Phú Thuận là con trai lớn trong một gia đình họ Nguyễn ở làng Thượng Đồng sở Tây Tạ, phủ Hạ Hồng, Hải Dương là những người tiên phong di dời khỏi Thượng Đồng bởi gia đình quá nghèo túng, làng lại nằm gần quốc lộ (chỗ nghĩa địa thôn ngày nay) nên thường xuyên bị cướp đến hỏi thăm. Cụ cũng là những người đầu tiên đến khai phá tại mảnh đất này. Để tưởng nhớ về mảnh đất mình đã sinh ra, cụ cùng với những người tới đây đặt tên cho nơi ở mới của mình là trại Đồng.

     Rồi vào mùa thu năm Giáp Tuất, niên hiệu Chính Hòa thứ XV (1694), quan tri phủ Vĩnh Lại cho lập địa giới hành chính làng, tổng. Lúc này tổng Hạ Am gồm 4 làng: Hạ Am, Cống Hiền, Hà Dương và An Quý. Còn trại Đồng vẫn thuộc sở Tây Tạ. Mọi đóng góp, hội hè... của trại Đồng đều về Thượng Đồng – Tây Tạ - Hải Dương (sau đó là xã Lý Nhân, nay là xã An Hòa, Vĩnh Bảo). Đến mùa hè Mậu Dần (năm 1698) cụ Nguyễn Phú Thuận bàn với các dòng tộc trong làng đổi trại Đồng thành làng Hạ Đồng và được quan tri phủ Vĩnh Lại chấp nhận địa giới hành chính này. Từ đó cái tên Hạ Đồng được ra đời và trưởng thôn (lý trưởng) đầu tiên của làng là cụ Nguyễn Phú Thuận.  Phần mộ của cụ hiện nằm trên đất vườn nhà ông Trần Rường, nguyên Bí thư Huyện ủy Vĩnh Bảo tại thôn Hạ Đồng, xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

 



Phần mộ của cụ Nguyễn Phú Thuận tại đất vườn nhà ông Trần Rường ngày nay

 

     Trong khi đó ở Thượng Đồng thì gia tộc cụ Thuận còn người em trai Nguyễn Phú Lợi, nhưng vào đời sau chỉ sinh con một bề (con gái), nên dòng họ Nguyễn Phú ở Hạ Đồng (Cộng Hiền) đã cử hậu duệ đời sau là cụ Nguyễn Công Chất quay lại Thượng Đồng lấy vợ, duy trì dòng tộc và thờ cúng tổ tiên. Cụ Nguyễn Công Chất có 2 bà vợ. Bà cả (họ Phạm) sinh hạ được 3 người con trai và bà hai có 1 người con trai. Sau thành 4 ngành họ Nguyễn tại xóm dưới thôn Thượng Đồng (nay là thôn Hạ Đồng, xã An Hòa). Tôi được biết hậu duệ đời thứ 7 ngành 3 có Tiến sỹ sử học Nguyễn Anh Ngọc hiện ở Hà Nội... Tính từ cụ Nguyễn Công Chất đến nay đã được trên 10 đời và ngành trưởng do bác Nguyễn Văn Toán (con ông Nguyễn Văn Đức) làm trưởng tộc.

     Đến đời thứ 3 của ngành 2 có cụ Nguyễn Phú Sinh Chung để người con trai lại nối dõi tông đường, cụ mang theo người con gái quay lại vùng đất, mà tổ tiên cụ đã có công khai phá (Hạ Đồng - Cộng Hiền), sau đó lấy vợ và sinh sống ở đó cho đến hết đời. 

     Vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, Việt Nam bắt đầu giao thương với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và cả Nhật Bản để trao đổi hàng hóa và vũ khí quân sự. Trong thời gian này, Công giáo đang có cuộc truyền giáo quy mô lớn khắp thế giới, trong đó có miền Viễn Đông Á Châu. Còn Công giáo được xâm nhập vào Hạ Đồng chỉ từ thời cụ Nguyễn Phú Huân (sinh năm 1847) là ông nội của nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Văn Ngọ. Cụ là người có công lao lớn trong việc truyền bá Công giáo và là ông Trùm đầu tiên của nhà thờ Hạ Đồng. Để ghi nhớ công lao to lớn của người đầu tiên trong xứ đạo Hạ Đồng, khi mất cụ Nguyễn Phú Huân được vinh dự an táng trong nhà thờ Hạ Đồng – Cộng Hiền. Như vậy ta có thể khảng định Công giáo gia nhập vào Hạ Đồng (Cộng Hiền) tới nay mới chưa đầy 150 năm.

      Khi đến Hạ Đồng (Cộng Hiền) được biết Nguyễn Tộc ở Hạ Đồng có nguồn gốc từ Thượng Đồng (An Hòa) tới và khi đến Hạ Đồng (An Hòa) lại được nghe nói nguồn gốc của Nguyễn Tộc từ Hạ Đồng (Cộng Hiền) sang. Như vậy người dân cả hai nơi nói đều chính xác. Hàng năm cứ vào 25 tháng giêng âm lịch là Nguyễn Tộc Hạ Đồng (An Hòa) làm lễ chạp Tổ tại nhà bác Nguyễn Văn Toán (sinh năm 1958, con trai cả ông Đức) thôn Hạ Đồng, xã An Hòa.

 .


Nhà thờ Công giáo thôn Hạ Đồng xã Cộng Hiền huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng
 

     Còn cái tên Hạ Đồng (An Hòa) mới có vài chục năm nay thôi. Thời chiến tranh chống Mỹ, những người gia nhập quân ngũ vẫn khai quê quán trong lý lịch là Thượng Đồng (xóm dưới) và Thượng Đồng (xóm trên), chứ chưa có tên Hạ Đồng. Sau đó do sự phát triển của dân số cũng như để dễ quản lý về mặt hành chính, UNND xã An Hòa đã đề nghị UBND huyện Vĩnh Bảo công nhận thôn Hạ Đồng – An Hòa. Để phân biệt thôn Hạ Đồng, người ta đều kèm theo từ xã ở đuôi như Hạ Đồng – Cộng Hiền hay Hạ Đồng – An Hòa, nhưng hai địa phương này có quan hệ dòng tộc khăng khít với nhau. 

Ngọc Tô

(Còn nữa)