VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
TIN TỨC
MẠC CẢNH HUỐNG (莫景貺) (1528 - 1617)
Mạc Cảnh Huống là một tôn thất nhà Mạc theo tài liệu của quốc sử triều Nguyễn, Mạc Cảnh Huống tên húy là Lịch,MẠC CẢNH HUỐNG (莫景貺)
(1528 - 1617)
Mạc Cảnh Huống là một tôn thất nhà Mạc theo tài liệu của quốc sử triều Nguyễn, Mạc Cảnh Huống tên húy là Lịch, xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, là con út của Thái tông Mạc Đăng Doanh và thứ phi Đậu Thị Giang, xét theo thứ bậc thì Mạc Cảnh Huống đứng sau Hiển Tông Mạc Phúc Hải, Ninh Vương Mạc Phúc Tư, Khiêm Vương Mạc Kính Điển,
Mạc Cảnh Huống người huyện Nghi Dương (Kiến Thụy), thuộc Hải Dương, Ông sinh 17-5 mậu Tý (Minh Đức 2 – Mạc 1528) mất ngày 1-1 Đinh Tỵ (Hoàng Định – Lê 1617) thọ 90 tuổi). Kỳ lạ thay, trong gia phả họ Mạc, không thấy có ai tên là Mạc Cảnh Huống
Theo Lê Quý Đôn (Đại việt thông sử), Vua Mạc Đăng Doanh có 7 con trai “Con trưởng là PhúcHải, thứ 2 là PhúcTư (Ninh Vương), thứ 3 là Kính Điển (Khiêm Vương), thứ 4 là Lý Thiền, thứ 5 là Lý Hòa, thứ 6 là Hiệp Thái, thứ 7 là Đôn Nhượng, (Ứng Vương)”, Ở đây Lê Quý Đôn đã nhầm, Mạc Đôn Nhượng không phải là con Mạc Đăng Doanh, mà là con của Mạc Phúc Hải, gọi Mạc Đăng Doanh là ông nội. không có ai tên là Mạc Lịch hay MạcCảnh Huống:
Vậy Mạc cảnh Huống là ai, theo chúng tôi, Mạc Cảnh Huống là một trong 3 người con thứ của Mạc Đăng Doanh là Mạc Lý Thiền, Mạc Lý Hòa, Mạc Hiệp Thái. Căn cứ vào năm sinh 1528, có thể ông là Mạc Lý Hòa, con trai thứ 5 của Mạc Đăng Doanh. Để thực hiện chuyến Nam du, ông đã đổi tên và giấu kín mối quan hệ với nhà Mạc, chỉ sau nầy, khi ông mất đi, người ta mới phát hiện được nguồn gốc của ông.
Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên: “Năm Mậu Ngọ (1558), mùa đông, Thái Tổ (tức Nguyễn Hoàng) vào Nam trấn thủ Thuận Hóa. Cảnh Huống đem gia quyến đi theo, sau làm quan đến Thống binh, tham mưu trong màn trướng, giúp việc lúc khai quốc" (Bản dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1993 tập 1, trang 81). Ông không chỉ đi một mình mà còn mang theo hai cháu ruột là Mạc thị Giai, Mạc Ngoc Lâu là con của anh trai Mạc Kính Điển. Hai người cháu gái này cũng đổi tên, không có tên trong gia phả họ Mạc. Khi đó Mạc Cảnh Huống 30 tuổi.
Năm 1564, Mạc Cảnh Huống lập gia đình với bà Nguyễn Thị Ngọc Dương, là em gái của phu nhân Đoan quốc công Nguyễn Hoàng. Và như vậy, Mạc Cảnh Huống và Nguyễn Hoàng là anh em đồng hao với nhau.
Là người có tài năng trong lĩnh vực quân sự. Ông đã hoạch định chiến lược quân sự của họ Nguyễn (Nguyễn Hoàng) ngay từ buổi đầu dựng nghiệp trên vùng đất mới, cùng với Nguyễn Ư Kỷ và Tống Phước Trị được coi là ba bậc khai quốc công thần của nhà Nguyễn buổi sơ khai, sau có thêm Đào Duy Từ, Lê Công Hán…
Ông cũng là vị chỉ huy tối cao của quân đội đàng Trong, người vạch ra chiến lược quân sự để chống quân Trịnh ở phía Bắc và bình định Chiêm Thành ở phương Nam. Dưới thời Nguyễn Hoàng, ông đã đóng góp nhiều công lao trong công cuộc Nam tiến, đánh chiếm Đồng Xuân và Tuy Hòa của Chăm pa vào năm 1611, mở rộng bờ cõi Đại Việt về phía Nam. Điều rất lạ là ông không bao giờ chỉ huy quân đánh mặt trận phía Bắc, có thể sợ phải giao chiến với quân nhà Mạc, quân ta đánh quân mình, ông đảm nhiệm mở mang lãnh thổ cho nhà Nguyễn về phía Tây và phía Nam, nhờ đó nhà Nguyễn ngày càng lớn mạnh về binh lực và rộng lớn hơn về lãnh thổ.
Để ghi nhận công lao của ông, năm 1617, khi ông mất, chúa Tiên Nguyễn Hoàng truy phong ông chức Nguyên huân Sư Thống thủ Thống Thái phó hay còn được gọi là Thống binh Thái phó và sau này còn được ban quyền mang họ của nhà Chúa là Nguyễn Phúc (đến thời Tây Sơn đổi thành Nguyễn Trường).
Mạc Cảnh Huống gả cháu gái Mạc Thị Giai cho chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Nguyên lại gả con gái là Công chúa Ngọc Liên cho con trai trưởng của ông là Mạc Cảnh Vinh. Phò mã Mạc Cảnh Vinh sau gọi là Nguyễn Phúc Vinh, được mang họ nhà chúa.
Các nhà viết sử triều Nguyễn sau này đã đánh giá cao sự đóng góp của Mạc Cảnh Huống trong việc xây dựng vương triều Nguyễn buổi sơ khai: “Khi Thái tổ Hoàng đế (chỉ Nguyễn Hoàng) vào Nam trấn Thuận Hóa, Tống Phước Trị sớm dâng bản đồ sổ sách trong xứ, lại cùng Uy Quốc công Nguyễn Ư Kỷ, Thống binh Mạc Cảnh Huống đồng tâm tận lực phụ tá vương thất, thật có công trạng trong thời quốc sơ vậy. Cảnh Huống dần dần làm quan tới chức Thống binh, góp mưu nơi màn trướng công lao phụ tá buổi quốc sơ ngang với Nguyễn Ư Kỷ, Tống Phước Trị”.
Để luôn nhớ về quê cũ, khoảng năm 1660, ông đã cho lập ngôi làng mang tên Cổ Trai ở Quảng Trị, xây ngôi chùa Lam sơn tại đây để dân chúng thờ Phật.
“Năm Đinh Mùi (1607), dựng chùa Bảo Châu (Bửu Sơn) ở Trà Kiệu (thuộc Quảng Nam). Đại Nam nhất thống chí cũng chép: “Chùa Bửu Châu ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, dựng năm Đinh Mùi thứ 50 (1607) đời Thái tổ gia dụ Hoàng đế,” Khi về già (86 tuổi), năm 1613 ông xin nghỉ về chùa Bửu Sơn tu hành cho đến năm 1617 thì ông mất, nhằm ngày 1-1 năm Hoằng Định thứ 18 triều Lê (1617) thọ 90 tuổi.
Hiện có tài liệu ghi ông mất vào năm 1677, là do người đi trước đã tính nhầm 1617 thành 1677, gia thêm 60 năm nữa làm cho những người sau cứ thế mà theo, thành ra cho ông thọ trên 100 tuổi, phụng sự ba đời nhà chúa thật buồn cười. Nếu tra cứu kỹ tại trang 8 của bản gia phả họ Nguyễn Trường tại Trà Kiệu thì thấy ghi rõ năm mất của cụ là: “弘定十八年丁巳年冥故 Hoằng Định thập bát niên, Đinh Tỵ niên minh cố”(Cụ qua đời vào năm Đinh Tỵ Hoằng Định thứ 18), từ cơ sở này ta sẽ thấy năm Đinh Tỵ (tức năm Hoằng Định thứ 18) đó chính là năm 1617. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là bởi niên hiệu Hoằng Định (tức niên hiệu của vua Lê Kính Tông (1588–1619) thì không có chuyện ông sống mãi đến năm 1677 được(vì năm 1677 là niên hiệu Vĩnh Trị của vua Lê Huy Tông (1676-1680).
Khi vua Duy Tân lên ngôi (1907-1916) đã đánh giá lại công lao của các công thần trong buổi sơ khai xây dựng vương triều Nguyễn, đã ra Sắc phong ngày 24 tháng 12 năm Duy Tân thứ nhất (1907), truy phong Mạc Cảnh Huống (tức Nguyễn Trường Huống) là bậc khai quốc công thần của triều đại.
Sau khi Mạc Cảnh Huống qua đời, ông được chôn cất tại làng Hoàng Châu, xã Trà Kiệu, phủ Hà Đông, Quảng Nam dinh, nay là xóm Hoàng Châu, Thôn 2, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Con trai trưởng của ông là Mạc Cảnh Vinh mất vào năm 1654 thọ 76 tuổi.
Theo Léopold Michel Cadière (1869-1955) là một linh mục, nhà truyền giáo thuộc Hội Thừa sai Paris tại Việt Nam: đã khảo cứu trong bài “Về bà vợ của Sãi Vương”. Cho ra nhận xét như sau: “Như vậy, cho thấy sự tiếp cận lẫn nhau giữa phe Nguyễn Hoàng với nhà Mạc thông qua Mạc Cảnh Huống là có chủ ý, là sự tính toán từ trước chứ không thể là tình cờ. Những hoạt động của Mạc Cảnh Huống, MạcThị Giai, nhất là sự mách nước của Mạc Cảnh Huống cho Nguyễn Hoàng là nằm trong cùng một kế hoạch mà nhà Mạc ngấm ngầm ủng hộ Nguyễn Hoàng lập cõi riêng ở phương Nam bằng một chức quan trấn thủ nhỏ nhoi là một sự tính toán, với một tầm nhìn xa chính xác, đáng sợ, không phải người có bộ óc thâm sâu, sự tiên tri kỳ diệu không thể nghĩ ra được”.
Từ những sự việc trên, đổi tên, cài cắm người ngầm giúp nhà Nguyễn lập nghiệp từ hai bàn tay trắng thành danh, mở rộng bờ cõi giang sơn Đại Việt, ta không thể không nghĩ tới một người có bộ óc siêu việt, có tầm nhìn xuyên suốt lịch sử, nhà tiên tri lỗi lạc Việt Nam, đó là cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Vĩnh Bảo ngày 10-11-2025
Vũ Hoàng
CHÚ THÍCH
1- Mạc Đăng Doanh tức Mạc Thái Tông là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ năm 1530 đến 1540, trị vì tổng cộng 10 năm. Trong thời gian trị vì, ông chỉ dùng niên hiệu Đại Chính (大正), nên còn được gọi là Đại Chính đế (大正帝). Thời kỳ của ông được gọi là Đại Chính chi trị (大正之治).
2- Mạc Phúc Hải (莫福海), tức Mạc Hiến Tông (1517 – 1546) là vị hoàng đế thứ ba của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1540 đến 1546 và chỉ dùng một niên hiệu là Quảng Hoà. Ông là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách), tỉnh Hải Dương.
3- Mạc Kính Điển tức Khiêm Vương Mạc Kính Điển (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự Kinh Phủ, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong tước Khiêm vương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Đại việt sử ký toàn thư
2- Đại Nam Thực lục
3- Đại việt thông sử (Lê Quý Đôn)
4- Khâm Định Việt sử
5- Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí
Các tin khác
-
18 lượt văn nghệ sĩ Hải Phòng được trao giải trong Cuộc vận động sáng tác VHNT
-
"Truyện Kiều" là một bản trường ca bất hủ, giàu ý nghĩa và có giá trị phổ quát cao
-
Toạ đàm ra mắt “Tuyển tập thơ song ngữ Việt – Hàn” của dịch giả Đặng Lam Giang
-
CHƯA CÓ DANH HIỆU "DANH NHÂN VĂN HOÁ THẾ GIỚI"!
-
Dương Bình Nguyên tái xuất với giải nhất tiểu thuyết về tội phạm dữ liệu
-
85 năm Ngày mất Nhà thơ Hàn Mạc Tử: Một phong cách thơ độc đáo và sáng tạo
-
VÀI MẠN ĐÀM VỀ CÂU 49 CHƯA QUA 53 ĐÃ TỚI
-
Nhà sản xuất ‘Mưa đỏ’ cảnh báo
-
“Thơ Nguyễn Tiến Thanh trong sự vận động của thơ Việt Nam đương đại”
-
VỀ BÚT DANH THÁI ĐẮC XUÂN

