/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

Thơ

HẢI PHÒNG

Tới nay bài thơ này đã có 95 năm tuổi đời và nhiều câu trở thành ca dao mới cho thành phố Hải Phòng.

HẢI PHÒNG

Hải Phòng có bến Sáu Kho(1)
Có sông Văn Úc, có lò Xi măng(2)
Cửa sông Tam Bạc đón trăng
Tàu thuyền sông Cấm giăng giăng mấy hàng
Cô nàng Thượng Lý(3) mơ màng
Đi về cầu Đất(4) gặp chàng Lạc Viên
Thủy Nguyên đất rộng người hiền
Đồ Sơn, Cát Hải một miền biển khơi
Cầu Rào, cầu Niệm là nơi
Từng đôi trai gái hẹn lời nước non
Sắc hoa phượng đỏ như son
Đôi bờ sông Lấp(5) như còn khắc ghi
Ngã Năm(6), ngã Sáu thầm thì
Cát Dài(7), Cát Cụt chỉ vì yêu nhau
Rủ nhau xuống quán Bà Mau(8)
Mà nghe tom chat cô đầu đêm khuya
Muốn cho yên tĩnh mọi bề
Tám Gian(9), Cầu Ngự(10) ta về nghỉ ngơi
Còi Nhà máy Nước gọi mời
Con đò Bến Bính chở người tình xưa
Hải Phòng vương vấn duyên đưa
Máy Chai(11), Phục Lễ lại về Máy Tơ(12)
Cầu dài chưa thỏa ước mơ,
Sông xưa vẫn đợi người chưa qua đò
Hải Phòng ta vẫn hẹn hò
Phố xưa, lối cũ lại về tìm nhau./.

__________

       (1- Sáu Kho là khu cảng chính Hải Phòng thời nay và đồng thời là tên cảng Hải Phòng ở thời điểm đó; 2- Nhà máy Xi măng được xây dựng vào năm 1899 tại thực địa làng Hạ Lý, tổng Da Viên, thời nay thuộc phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng; 3- Làng Thượng Lý, xưa thuộc tổng Da Viên, đã bị mất tên vào cuối thế kỷ XX, thời nay thuộc khu vực phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng; 4- Cầu Đất là cầu đắp bằng đất ở khu vực ngã tư Trần Phú – Cầu Đất thời nay, chứ lúc đó phố mang tên Pont Doumer, sau 1945 mang tên Hồ Chí Minh, còn sau này mới mang tên Cầu Đất; 5- Sông Lấp, thực tế là kênh Vành Đai, sau mang tên kênh Bonnal và năm 1923 thì bị lấp đến hồ Tam Bạc ngày nay; 6- Ngã 5 là giao tiếp của 5 con phố là: Đà Nẵng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Lai, thời nay thêm phố Lê Hồng Phong nữa thành ngã 6 mới; 7- Cát Dài, từ năm 1954 mang tên Hai Bà Trưng, nhưng người dân thành phố vẫn gọi theo tên cũ là Cát Dài. Vì theo thần tích tại đền thờ Lê Chân ở 53 phố Lê Chân, thì bà được Hai Bà Trưng phong là Công chúa Thánh Chân, tức con gái vua. Trong đó lãnh đạo thành phố Hải Phòng lại đặt tên phố là Hai Bà Trưng thuộc quận Lê Chân (tức mẹ là phố, còn con là quận), mặc dù trước 1954 phố Hai Bà Trưng nằm ở khu Hồng Bàng. Hầu hết các phố ở nội đô đều bị đổi tên nhiều lần, nhưng duy nhất cách gọi phố Hai Bà Trưng là vậy; 8- Quán Bà Mau, đây là khu vui chơi giải trí do bà Mau làm chủ, nằm ở khu vực qua các cơ quan Đảng thành phố thời nay làm việc gần ngã tư, trước đây thuộc làng Hàng Kênh, tổng Đông Khê, thời nay thuộc phường Lạch Tray; 9- Tám Gian, là khu vực thuộc ngõ số chẵn phố Lê Lợi ngày nay gần về phía Ngã Tư Thành Đội; 10- Cầu Ngự là khu vực cầu Hoàng Văn Thụ ngày nay, trước đây là cổng số Một của cảng Hải Phòng. Vào tháng 5 năm 1918, vua Khải Định ra thăm Bắc Kỳ với biệt danh là Hoàng đế Ngự giá Bắc tuần (thuyền Ngự nhà vua ra tuần thú Bắc Kỳ) và từ đó trở đi bến tàu này mang tên bến Ngự, còn cầu tàu này mang tên cầu Ngự. Ngày 20/10/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pháp về cũng đã cập bến Ngự này; 11- Máy Chai, tức Nhà máy Thủy Tinh, thời nay thuộc phường Máy Chai, quận Ngô Quyền; 12- Máy Tơ, tức Nhà máy Dệt, thời nay thuộc phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền)

 

       (Bài thơ này của Thi sỹ Lê Đại Thanh (1907 - 1996) sáng tác năm 1931, lúc ông tròn 24 tuổi. Tới nay bài thơ này đã có 94 năm tuổi đời và nhiều câu trở thành ca dao mới cho thành phố Hải Phòng)