VIDEO
Tin nóng
QUẢNG CÁO
LỊCH
LIÊN KẾT
THƠ VĂN BẠN BÈ
CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ TỈNH HẢI DƯƠNG
Tỉnh Hải Dương cổ (trước thời Đồng Khánh) gồm 19 huyện, sau đó chính quyền thực dân Pháp chia lại địa giới hành chính...CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ TỈNH HẢI DƯƠNG
.
Tỉnh Hải Dương cổ (trước thời Đồng Khánh) gồm 19 huyện, sau đó chính quyền thực dân Pháp chia lại địa giới hành chính và thời nay gồm 2 thành phố, một thị xã và 9 huyện. Xin giới thiệu cùng bạn đọc về một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Chúng tôi tiếp tục sưu tầm và xuất bản sách phục vụ độc giả:
CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ VỀ TỈNH HẢI DƯƠNG
.
Tỉnh Hải Dương cổ (trước thời Đồng Khánh) gồm 19 huyện, sau đó chính quyền thực dân Pháp chia lại địa giới hành chính và thời nay gồm 2 thành phố, một thị xã và 9 huyện. Xin giới thiệu cùng bạn đọc về một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Chúng tôi tiếp tục sưu tầm và xuất bản sách phục vụ độc giả:
1-
Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền.
(Đồng Tỉnh, Huê (Hoa) Cầu, làng có nghề nhuộm vải thâm từ xa xưa thuộc huyện Văn Giang Bắc Ninh, từ năm 1948 cắt về Hưng Yên. Làng này 11 TS. Nho học, nay thuộc xã Nghĩa Trụ, Hưng Yên, quê của TBT Tô Lâm. Thanh Lâm nay là Nam Sách, Hải Dương)
2-
Bao giờ lấp ngã ba Tranh
Để ta gánh đá xây thành Cổ Loa.
(Ngã ba Tranh Xuyên, từ Tranh sau này Nôm hóa gọi là Chanh: nơi sông Hóa (trước 1890 là sông Tranh) tách ra từ sông Luộc (trước 1890 là sông Lục), tạo thành ngã ba tiếp giáp giữa Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình. Sông Luộc trước năm 1285 chỉ đến ngã ba Tranh, sau đó Trần Hưng Đạo đã đề đạt với vua Trần Nhân Tông và cho đào đoạn từ ngã 3 Tranh tới ngã ba Hải với chiều dài chừng 4 dặm và từ đó trở đi hệ thống sông Nhị (sau là sông Hồng) và sông Hàm (sau là sông Thái Bình). Ở đó có đền Tranh (huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) thờ Quan Lớn Tuần Tranh rất linh thiêng. Thời nay có tới 3 đền Tranh mọc lên ở khu vực này?)
3-
Bút nghiên, đèn sách, văn phòng
Hồng Châu, Nam Sách nhiều dòng thi thơ.
4-
Cam Phù Tải, vải Thúy Lâm
(Phương ngôn huyện Thanh Hà)
5-
Chim gà, cá nhệch, cảnh cau
Mùa nào thức ấy giữ màu thú quê .
(Ca dao Thanh Hà)
6-
Chơi với quan Thanh Lâm
Như giáo đâm vào ruột.
7-
Chuông Châu, trống Ủng, mõ Đầu.
(Chuông làng Châu, trống làng Ủng, mõ làng Đầu, ba làng ở gần nhau)
8-
Có tiền buôn Đông, không tiền buôn Thái.
9-
Con gái làng Vờ đẹp như trong tranh
Chồng gọi thì dạ thưa anh bảo gì
Con gái Vũ Thượng mặt mủng da chì
Chồng gọi thì hử, cái gì thằng kia?
(Ca ngợi con gái làng Vờ ngoan, đẹp và phê phán con gái Vũ Thượng vừa xấu, vừa ghê gớm. Các điạ danh trên nằm ở phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương ngày nay)
10-
Cô kia đội nón quai xanh
Có về tổng Giám với anh thì về
Tổng Giám có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát, có nghề quay tơ.
(Tổng Giám nay thuộc huyện Cẩm Giàng)
11-
Côi Đông thâm vai, Côi Đoài thâm đít, Tự Đông hít bờ, Phượng Cáo rờ ao.
(Bốn địa phương thuộc thành phố Hải Dương. Côi Đông gồng gánh hàng xáo nên thâm vai, Côi Đoài cả ngày ngồi đan thúng nên thâm đít, Tự Đông, Phượng Cáo chuyên mò cua bắt ếch nên hít bờ, rờ ao)
12-
Cơm làng Hoá, cá làng Từ
Áo quần Thủ Pháp, cửa nhà Châu Quan.
(Phương ngôn xã Đoàn Kết, Thanh Miện)
13-
Cơm Ma Há, cá Văn Thai, bánh gai Đồng Nền.
(Những món ngon ở các làng thuộc Cẩm Giàng, Nam Sách)
14-
Đầu Trắm, đuôi Mè, giữa khe Tam Lạng.
(Đầu là làng Trắm, đuôi là khu vực Mè, Tam Lạng là ba làng Lạng (Bình Lãng): làng Đông, làng Thượng, làng Khổng Lý. Đều thuộc huyện Tứ Kỳ)
15-
Đền thờ Nhân Huệ anh hùng
Vân Đồn vang dội, giặc Nguyên rụng rời.
(Ca dao về đền Gốm ở Chí Linh, thờ tướng Trần Khánh Dư)
16-
Đình Sinh, Quán Sếu, làng Tràng
Trong ba làng ấy không làm cũng có ăn.
(Ba làng Thanh Liễu, Khuê Liễu, Liễu Tràng ở huyện Gia Lộc xưa có nghề khắc in bản mộc. Nghề đó đem lại cuộc sống no đủ cho người dân ba làng).
17-
Đường làng Dầu trơn như mỡ.
(Làng Dầu nay thuộc Cẩm Giàng)
18-
Đường về Kiếp Bạc bao xa
Đường về Kiếp Bạc có cây đa bồ đề
Có yêu anh cắp nón ra về
Giàu ăn khó chịu, chớ hề thở than.
19-
Gốm trông phong cảnh hữu tình
Càng nhìn càng thấy vẻ xinh tuyệt vời
Dưới sông thuyền chạy ngược xuôi
Trên bờ phố Gốm hết lời ngợi ca
Đêm đèn đốt tựa sao sa
Đền thờ Nhân Huệ nguy nga lẫy lừng
Nhân dân nô nức tưng bừng
Đón rằm tháng Tám hội mừng đua chen.
20-
Hải Dương tứ kiệt: Nhất Đĩnh, nhì Minh, tam Kình, tứ Thấm (Khắm).
(Kình là Đào Trọng Kình, bố của Tổng đốc Đào Trọng Kỳ, quê ở Cổ Am, Vĩnh Bảo, còn Thấm (tục là Khắm) họ Lê, sau này là bố vợ của ông Kỳ. Tổng đốc Đào Trọng Kỳ là người có công lớn đào sông Chanh Dương ở huyện Vĩnh Bảo. Bốn vị trên là bậc hào kiệt của tỉnh Hải Dương thời Nguyễn)
21-
Hến Cầu Tre, cá mè Lai Cách.
(câu ca ở huyện Cẩm Giàng)
22-
Hoàng Xuyên, Văn Nhuệ cũng giống thôn ta
Thủ Pháp, Lang Gia về ta cũng thế.
(Phương ngôn làng Châu Quan, xã Đoàn Kết, huyện Thanh Miện)
23-
Kẻ Sặt đất lề quê thói
Kiệt sơn thất thập nhị phong
Phượng Hoàng đệ nhất trong vùng Chí Linh.
24-
Làng Châu Khê tay vàng tay bạc
Cân Bái Dương giữ mực trung thành
Làng Cao thợ thiếc lọc tinh
Kim hoàn La Tỉnh nghề lành càng ghê.
(Các làng nghề kim hoàn, kim khí ở Bình Giang, Cẩm Giàng, Chí Linh, Tứ Kỳ)
25-
Làng Hóp có bán lợn con
Làng Quao có đất sơn son nặn nồi.
(Làng Hóp, làng Quao thuộc huyện Nam Sách)
26-
Lẳng lơ chẳng một mình tôi
Thanh Lâm, Đồng Sớm cũng đôi ba người
Nói ra sợ chị em cười
Lấy chồng tháng chín, tháng mười có con.
(Làng Thanh Lâm, xưa thuộc tổng An Trú, huyện Thành Lâm, thời nay thuộc khu vực xã Thanh Lâm, huyện Nam Sách. Còn Đồng Khê, tên Nôm là Đồng Sớm, xưa thuộc tổng An Lương, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách. Thời nay thuộc xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
27-
Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang.
28-
Một đồng một giỏ
Không ai bỏ nghề câu
(Phương ngôn làng Giám - Cẩm Giang. Hai từ Cẩm Giang nghĩa nôm na là con sông đẹp. Từ khi chúa Trịnh Giang cầm quyền, thì từ Giang trong văn nói đọc chệch là Giàng, song trong văn viết vẫn ghi là Giang, kể cả các Thần sắc năm Bảo Đại 9 (1924) vẫn ghi là Cẩm Giang)
29-
Mộ Trạch họp việc làng giữa kinh đô.
(Đời chúa Trịnh Tráng, làng Mộ Trạch có tới 17 người đỗ đạt làm quan trong triều)
30-
Muốn ăn cơm trắng, cá ngần
Lấy chồng làng Bói cho gần chợ Hôm.
(Bói, Hôm thuộc huyện Ninh Giang)
31-
Muốn làm con mẹ con cha
Thì sinh ở đất Thanh Hà xứ Đông.
32-
Mưa từ làng Lý, làng Rào
Lòng em khao khát mà nào thấy mưa.
(Lý, Rào thuộc thị trấn Nam Sách)
33-
Nam Chân, Bắc Dũng, Đông Kỳ, Tây Lạc.
(Thời Nguyễn, có bốn huyện được coi là trù phú nhất: xứ Sơn Nam có huyện Chân Định - nay là Kiến Xương, xứ Kinh Bắc có huyện Yên Dũng, xứ Hải Dương có huyện Tứ Kỳ, xứ Sơn Tây có huyện Yên Lạc)
34-
Năm giáp Châu Khê, hai đình Hàng Bạc.
(Người làng thuộc năm giáp ở làng Châu Khê (Bình Giang) di cư ra Thăng Long làm nghề đúc bạc, lập ra phố Hàng Bạc. Hai ngôi đình là Trương đình và Kim Ngân đình là nơi nộp thành phẩm cho Nhà nước)
35-
Nước Thanh Mai đi hai về một.
(Xưa kia Thanh Mai ở Chí Linh là vùng rừng thiêng nước độc)
36-
Quan làng Cốc, ốc làng Cờ.
(Làng Thượng Cốc ở Gia Lộc có nhiều người làm quan như Nghè Tân, PCT nước Lê Thanh Nghị, Nhà cách mạng Nguyễn Hới... Làng có gần 40 TS thời nay và 4 nhà văn. Làng Cờ ở Tứ Kỳ ruộng trũng có nhiều ốc)
37-
Quần cộc chân chì, không Tứ Kỳ thì cũng Gia Lộc.
Hay: Mắt toét chân chì. Chẳng Tứ Kỳ cũng Gia Lộc
(Người dân Tứ Kỳ, Gia Lộc chuyên mặc quần cộc nên chân đen).
38-
Người Tứ Kỳ làm gì cũng được
39-
Đường Tứ Kỳ xe gì đi cũng hỏng
40-
Rượu làng Tơ, cờ Mộ Trạch
41-
Tại hương tại phố một quê
Châu Khê, Hàng Bạc đi về ngược xuôi
Như hương tỏa khắp mọi nơi
Kim hoàn trang sức cho đời đẹp xinh.
42-
Tháng tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ.
(Hội đền Kiếp Bạc mở vào tháng tám để tưởng nhớ Đức Thánh Trần; hội Phủ Dầy ở Nam Định mở vào tháng ba để tưởng nhớ Mẫu Liễu Hạnh)
43-
Thành Hà Nội năm cửa, chàng ơi
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng
Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có Thánh sinh...
(Sông Lục Đầu ở Hải Dương là nơi diễn ra nhiều trận đánh chống quân xâm lược)
44-
Thành Phao, Phả Lại, Lục Đầu
Em về em để mối sầu cho ai.
45-
Thứ nhất cô Nghị Thanh Hoa
Thứ nhì Bủi Lạng, thứ ba Thạch Sùng.
(Những người giàu có nhất ở Việt Nam thời xưa. Bà Bủi ở thôn Đông, xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ)
46-
Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm.
(Làng Đọc giàu có, làng Nhữ ruộng tốt, nhiều thóc lúa, làng Chằm (Mộ Trạch) nổi tiếng học giỏi. Ba làng thuộc huyện Bình Giang)
47-
Trạng cờ Mộ Trạch càng ghê
Sứ Yên thua cuộc rút xe về thành.
(Tiến sĩ Vũ Huyên người làng Mộ Trạch dùng mẹo mách nước cờ cho vua Lê Dụ Tông khi vua đánh cờ với sứ Trung Hoa)
48-
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu
Tỉnh Thanh cung đốn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái Bình thời phải giã giò, gói nem
Ninh Bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Hà Đông đúc nồi
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè
Gia Định hầu điếu hầu xe
Phủ Đình thời phải chém tre bắc cầu
Nước Tây nước Tàu anh gửi thư sang
Anh mời hai họ nhà trời
Ông Sấm ông Sét, đứng đầu Thiên Lôi.
49-
Tứ Kỳ, Gia Lộc, ăn độc, ăn tham
Nam Sách, Kinh Môn, vừa ngang vừa đểu.
50-
Vợ xứ Đông, chồng xứ Bắc
(Con gái xứ Đông - Hải Dương, nhiều người đảm đang, tháo vát)
51-
Xa đưa văng vẳng tiếng chuông
Kìa chùa Phả Lại chập chùng bên sông.
52-
Con gái Vũ La, làm mắm mắm thối, làm cà cà thiu
(Vũ La ở Nam Đồng HD)
53-
Phú Lương nổi tiếng nhất
Bánh chưng đất nhất vùng
(Thời bao cấp hành khách trên tàu hỏa bị lừa mua bánh chưng đất của một số thương nhân tại cầu Phú Lương)
(Còn nữa)
NGỌC TÔ sưu tầm
(Mọi góp ý xin gửi về Email: tongocthachhp@gmai.com - Xin chân thành cảm ơn)

