/Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong/. Thơ Thanh Tịnh

VIDEO

HỖ TRỢ

QUẢNG CÁO

LỊCH

LIÊN KẾT

THƠ VĂN BẠN BÈ

CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ LIÊN QUAN TỚI SÔNG BẠCH ĐẰNG

Câu ca này có vào sau này, khi phân chia ranh giới giữa Hải Phòng và Hải Dương (huyện Đông Triều)...

CA DAO TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ LIÊN QUAN TỚI SÔNG BẠCH ĐẰNG

.

       Chúng tôi đã sưu tầm được một số câu ca dao tục ngữ, thành ngữ cổ về sông Bạch Đằng như sau:

          1-

Ông Sông, ông Bể phải nể ông Dầng

       (Câu này ý nói tất cả các sông và cửa bể của Đại Việt nếu so với Bạch Đằng thời xa xưa thì không nổi trội hơn cả về sự hùng vỹ hay chiến công. Sông Bạch Đằng, gọi tắt là Đằng, gọi theo tên Nôm là Dầng hay Rừng. Vào thời nhà Trần, thì cửa sông Bạch Đằng ở khu vực ngã ba sông Giá và Bạch Đằng ngày nay, còn thời nay cửa biển Bạch Đằng đã tịnh tiến về phía biển hơn chục cây số nằm ở khu vực đảo Cát Hải thành phố Hải Phòng. Hay bến đò ngang mang tên Đoan hay Dầng này còn từng là bến đò dọc từ thời xa xưa cho tới thời nay)

          2-

Con ơi nhớ lấy lời cha

Cường Nam, lộng Bắc chớ qua sông Rừng

          Hay:

Con ơi nhớ lấy lời cha

Gió to sóng cả, chớ qua sông Rừng

Đánh giặc thì đánh giữa sông

Đừng đánh chỗ cạn phải chông mà chìm

        (Bạch Đằng, gọi tắt là Đằng, gọi theo tên Nôm là Rừng hay Dầng, là con sông lớn và trước đây nếu gặp lúc thủy triều dâng cao, hay gió lớn nếu qua rất nguy hiểm. Còn câu ca dao cuối ghi là chông, tức bãi cọc gỗ. Sông này được gọi theo nhiều tên khác nhau: Từ thời Trần (1225 - 1400) trở về trước là Bạch Đằng Giang, tức sông Bạch Đằng, nghĩa là “sông có rừng sóng bạc đầu”. Thời Lê Sơ (1428 – 1527) gọi là sông Vân Cừ, từ thời Mạc về sau thì khúc thượng lưu gọi là Thành Triền, hay gọi theo tên Nôm là Thành Dền. Từ thời Pháp thuộc (1890) đổi thành Đá Bạc hay Đá Bạch và hiện nay cửa sông đã tịnh tiến về phía biển đến địa phận đảo Cát Hải thành phố Hải Phòng vì vùng duyên hải được các trầm tích phù sa bồi đắp theo thời gian) 

          3-

Thủy Đường hùng tráng

Nổi tiếng Tràng Kênh

Núi cao sừng sững

Đền miếu hiển vinh

Rồng cuộn Mã Yên

Hổ chầu núi Phượng

Phía sau núi biếc

Mặt trước sông Dầng

       (Đây là đoạn trích bài minh tạc ở “Bia ghi lệnh cử dân phu coi sóc đền Thánh” dựng ngày 22 tháng 02 năm Đinh Dậu (1657) do ông Nguyễn Đình Tránh viết ở bia có kích thước nhỏ hơn. Còn bia có kích thước lớn hơn do xã trưởng Nguyễn Hữu Khách tái soạn tả (tức chép lại) vào năm Nhâm Dần ở làng Tràng Kênh, tổng Dưỡng Động, huyện Thủy Đường, ngày nay thuộc thị trấn Minh Đức huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng thành phố Hải Phòng. Qua bài minh ta biết được vị trí của miếu Trần Hoàng Tôn, thờ các Vương tôn Công tử cháu vua Trần vị thứ nhất (tức Trần Thái Tông). Trong hai bia đá cổ này không nhắc tới cá nhân vị tướng quân Quốc Bảo nào và khẳng định rằng đây là miếu (sau này gọi đền) thờ Trần Hoàng Tôn, không phải miếu thờ cá nhân. Còn sông Bạch Đằng hay gọi là sông Đằng, tên Nôm là Dầng hay Rừng, nên mới gọi là sông Dầng. Trong đó một số sách chính thống xuất bản tại Hải Phòng lại giải nghĩa từ Dầng là “có nghĩa nước dâng lên, lên cao” thực sự chưa có cơ sở, vì bất cứ sông nào ở giáp biển đều bị triều cường hay nước rặc do lực hấp dẫn của mặt trăng, hay mặt trời đối với trái đất. Hay Mã Yên là núi Yên Ngựa, núi Phượng viết tắt của Phượng Hoàng đều ở thực địa của Tràng Kênh)

          4-

Nhất cao là núi U Bò

Nhất đông chợ Giá nhất to sông Dầng

       (Tại “khu đảo này” thì núi U Bò là cao nhất, xưa thuộc làng Tràng Kênh, tổng Dưỡng Động huyện Thủy Đường, nay thuộc thị trấn Minh Đức huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng, thành phố Hải Phòng. Còn chợ Giá thuộc làng Mỹ Giang, tên Nôm là Giá, xưa thuộc tổng Dưỡng Chân huyện Thủy Đường, thời cách mạng thuộc xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Lưu Kiếm thành phố Hải Phòng. Có tài liệu khác ghi chợ Giá ở xã Gia Đức gần núi U Bò)

          5-

Dương Kinh - Nghi Dương

Thủy Đường – Hoàng Tôn

       (Trung tâm quyền lực thời Mạc nằm ở huyện Nghi Dương, đạo Hải Dương, thời nay là huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng. Còn đền thờ các Vương tôn Công tử cháu nội vua Trần thứ nhất, tức ngang hàng với vua Trần Nhân Tông đã anh dũng hy sinh tại chiến trường, được thờ ở làng Tràng Kênh, huyện Thủy Đường, trấn Hải Dương, thời nay thuộc thị trấn Minh Đức huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng thành phố Hải Phòng)

          6-

Tràng Kênh có núi U Bò

Có bến Quán Đá có đò sang sông

       (Núi U Bò ở làng Tràng Kênh, xưa tổng Dưỡng Động, nay thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng thành phố Hải Phòng. Còn bến đò Quán Đá qua sông Mỹ, từ năm 1890 đổi thành sông Giá sang làng My Sơn tổng Kênh Triều bên hữu ngạn sông, thời nay thuộc xã Ngũ Lão huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng, thành phố Hải Phòng)

          7-

Sông Đằng một dải lê thê

Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông

Giặc Bắc tàn ác chất chồng

Ba lần đền tội đều không đường về.

       (Sông Bạch Đằng, gọi tắt là Đằng, gọi theo tên nôm là Rừng hay Dầng, nên gọi là sông Đằng, hay sông Rừng hay sông Dầng đều được. Ba lần giặc phương Bắc bị quân dân Đại Việt đánh bại vào thời Ngô Quyền (năm 938), thời Lê Đại Hành (năm 981) và thời Trần (năm 1288).

          8-

Tràng Kênh - Kim Quan

Cùng làng - Dưỡng Động

       (Nguồn gốc cư dân làng Tràng Kênh, tổng Dưỡng Động, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, thời nay thuộc xã Tràng Kênh, huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng thành phố Hải Phòng là từ làng Tràng Kênh, tổng Kim Quan, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, thời nay thuộc xã Kim Giang, huyện Cẩm Giàng, từ 07/2025 thuộc xã Cẩm Giang, thành phố Hải Phòng. Sau khi di cư xuống động Trúc (nay là 7 xã, thị trấn là Minh Đức, Gia Đức, Minh Tân, Gia Minh, Lưu Kiếm, Lưu Kỳ và Liên Khê) ở phía cửa biển (tức thị trấn Minh Đức huyện Thủy Nguyên ngày nay), họ không quên nơi chôn nhau cắt rốn của mình đã lấy tên làng mới của mình với tên Tràng Kênh. Hai làng này cổ xưa có giao hiếu với nhau và có cùng một Thành hoàng là “Linh Phù Minh Hiển Bản Cảnh Thành Hoàng Chi thần”, trong đó Thần sắc ở làng Tràng Kênh huyện Cẩm Giàng năm Khải Định thứ 9 (1924) ghi: Được gia tặng với mỹ tự “Đôn Ngưng Tôn thần”, tức vị Thành hoàng này là Thổ Thần. Trong đó nhiều nhà Hán Nôm và Sử học Hải Phòng lại cho vị Thành hoàng này ở làng Tràng Kênh, huyện Thủy Nguyên là Tướng quân Trần Quốc Bảo, mặc dù chưa rõ ông là ai)

          9-

Ông Rừng coi chừng ông Gót      

       (Câu ca này có vào thời Nguyễn nói về hai bến đò ngang trên sông Bạch Đằng và sông Đồn sau này. Bến Rừng bên tả ngạn sông, hay bến Đoan ở bên hữu ngạn sông, xưa thuộc làng Đoan Lễ, tổng Phục Lễ huyện Thủy Đường, thời nay thuộc xã Tam Hưng huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Nam Triệu thành phố Hải Phòng. Còn giáp Gót xưa thuộc làng Đôn Lương tổng Đôn Lương huyện Cát Hải, thời nay là bến phà Gót bên hữu ngạn sông, còn bên tả ngạn sông là bến Cái Vang, gọi theo tên Nôm là Cái Viềng, thời nay thuộc xã Phù Long, từ 07/2025 thuộc đặc khu Cát Hải thành phố Hải Phòng. Hai bến đò này đều khá rộng với bề ngang chừng trên dưới một cây số và khi gió to sóng cả đi qua dễ gặp nguy hiểm, nhưng bến Gót ở ngay cửa biển nguy hiểm hơn)

          10-

Hoàng Tôn làng Kênh

Hiển Linh làng Chung

Thánh Trần làng Thụ

       (Câu ca này có vào thời Hậu Lê (1428 - 1788) nói về ba đền thờ các Vương tôn công tử nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3 (1287 - 1288). Hay sách “Đồng Khánh địa dư chí” xuất bản thời Nguyễn ghi duy nhất ba đền thờ có liên quan tới thời Trần tại hai bên tả hữu sông Bạch Đằng như sau: Đền thờ Trần Hoàng Tôn, tức các Vương tôn công tử nhà Trần ở ngôi thứ ba (các cháu nội vua Trần Thái Tông đã anh dũng hy sinh tại chiến trận) tại làng Tràng Kênh, gọi tắt là Kênh thuộc tổng Dưỡng Động huyện Thủy Đường (nay thuộc phường Bạch Đằng, Hải Phòng); Đền thờ Hiển Linh thần, tức Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện, con trai thứ tư của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn ở làng Chung Mỹ, gọi tắt là Chung thuộc tổng Kênh Triều huyện Thủy Đường (nay thuộc phường Thủy Nguyên, Hải Phòng) và đền thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn hay còn gọi là đức Thánh Trần ở làng Thụ Khê, gọi tắt là Thụ thuộc tổng Trúc Động, huyện Thủy Đường (nay thuộc phường Lưu Kiếm, Hải Phòng). Còn lại tất cả các đền hay miếu thờ khác (thời nay gọi là di tích) có liên quan tới nhà Trần ở hai bên sông Bạch Đằng mới được xây dựng vài chục năm nay vào thế kỷ XX, hay thế kỷ XXI mà thôi)

          11-

Sâu nhất là khúc sông Dầng

Ba lần giặc đến ba lần giặc tan.

          Hay:

Sâu nhất là sông Bạch Đằng

Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan

Cao nhất là núi Lam San

Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra.

       (Sông Bạch Đằng, gọi tắt là Đằng, gọi theo tên nôm là Rừng hay Dầng, nên gọi là sông Đằng, hay sông Rừng, hay sông Dầng đều được. Ba lần giặc phương Bắc bị quân dân Đại Việt đánh bại vào thời Ngô Quyền (năm 938), thời Lê Đại Hành (năm 981) và thời Trần (năm 1288).

          12-

Trần Hoàng Tôn sơn

Do vua Trần định

Liệt sỹ lăng viên

Bên chân núi Phượng

       (Để tưởng nhớ tới công lao của các Vương tôn Công tử là cháu vua Trần ngôi thứ nhất (Trần Thái Tông) đã anh dũng hy sinh tại chiến trận, thì sau chiến thắng giặc Nguyên Mông lần ba (1288) vua Trần Nhân Tông đã đặt tên cho dãy núi ở phía Đông động Trúc (sau này là Tràng Kênh) là Trần Hoàng Tôn, gọi tắt là Hoàng Tôn. Còn Liệt sỹ lăng viên, nghĩa là Nghĩa trang Liệt sỹ ở khu vực chân núi Phượng Hoàng, gọi tắt là núi Phượng nằm ở phía Nam miếu thờ Hoàng Tôn. Các địa danh này từ thời Hậu Lê (1428 - 1788) thuộc làng Tràng Kênh tổng Dưỡng Động huyện Thủy Đường, thời nay thuộc thị trấn Minh Đức huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng, thành phố Hải Phòng. Vào thời Bắc thuộc lần thứ 4 (1407 – 1427) giặc Minh đã phá hủy toàn bộ các công trình do nhà Trần xây dựng, đến thời Mạc và Lê Trịnh mới được phục hồi lại)

          13-

Nghị Đỉnh – Bạch Đằng

Nức danh thiên hạ

       (Sách “Đại Nam nhất thống chí” xuất bản thời Nguyễn ghi: “Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), triều đình nhà Nguyễn đúc Cửu Đỉnh khắc hình tượng vào Nghị Đỉnh. Năm Tự Đức thứ 3 (1850) liệt vào hàng sông lớn ghi vào điển thờ…”. Như vậy sông Bạch Đằng được khắc ở Nghị Đỉnh, một trong chín đỉnh bằng đồng được lưu giữ tại sân Thái Miếu sát với Hiển Lâm Các từ đó tới nay ở cố đô Huế)

          14-

Ông nọ bà kia

Nếu qua Thụ Khê

Xin mời xuống ngựa

       (Đền thờ Trần Hưng Đạo hay gọi là Đức Thánh Trần khá nổi tiếng ở làng Thụ Khê, xưa thuộc tổng Trúc Động, huyện Thủy Đường, thời nay thuộc xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, từ tháng 07 năm 2025 thuộc phường Lưu Kiếm thành phố Hải Phòng).  

          15-

Sông Đằng sóng dữ bủa vây

Ba lần giặc đến bỏ thây không về

              (Bạch Đằng Giang, tức sông Bạch Đằng, gọi tắt là Đằng, gọi theo tên nôm là Rừng hay Dầng. Nghĩa tiếng Hán của sông này là sông có rừng sóng bạc đầu, mà các nhà thơ thời phong kiến gọi là sóng kình. Ba lần giặc phương Bắc bị quân dân Đại Việt đánh bại vào thời Ngô Quyền (năm 938), thời Lê Đại Hành (năm 981) và thời Trần (năm 1288).

          16-

Tháng tám giỗ Cha

Tháng ba giỗ Mẹ

       (Câu ca này ý nói tưởng nhớ ngày hóa Thánh của đức Thánh Trần và đức Quốc Mẫu Liễu Hạnh vào tháng tám và tháng ba âm lịch)

          17-

Dù ai buôn xa bán xa

Hai mươi tháng tám giỗ Cha thì về

       (Câu ca này ý nói tưởng nhớ ngày hóa Thánh của đức Thánh Trần vào ngày hai mươi tháng tám âm lịch)

          18-

Tháng tám trâu bò ra

Tháng ba trâu bò về

       (Đây là câu ca tại khu vực sông Bạch Đằng nói về thời điểm thay đổi của thủy triều lên xuống tùy theo mùa, từ đó phục vụ đời sống, lao động sản xuất như: Đánh bắt thủy sản, hay canh tác nông nghiệp. Ví như vào tháng Tám âm lịch, thì nước rặc (triều rút cạn) vào buổi sáng, còn tháng Ba vào buổi chiều. Trong khi đó nhiều sách chính thống xuất bản tại Hải Phòng hay Quảng Ninh lại nhầm là triều cường, chứ không phải nước rặc)

          19-

Gặp nhau ở bến đò Rừng

Không đi thì nhớ, đi chừng thấy thương

       (Bạch Đằng Giang, tức sông Bạch Đằng, gọi tắt là Đằng, gọi theo tên nôm là Rừng hay Dầng. Bến đò Rừng nối từ huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng sang huyện Yên Hưng, ngày nay là thành phố Quảng Yên, Quảng Ninh)

          20-

Em ơi chị bảo em này

Nhất mặn là muối nhất cay là gừng

Nhất rộng là bến sông Rừng

Chị từng tát cạn bắt từng cá con?

       (Bạch Đằng Giang, tức sông Bạch Đằng, gọi tắt là Đằng, gọi theo tên nôm là Rừng hay Dầng. Phụ nữ sống ở hai bên sông cũng không dễ bị bắt nạt)

          21-

Thành Dền Thiểm Khê

Đền Nghè Thanh Lãng

       (Làng Thiểm Khê, xưa thuộc tổng Trúc Động, thời nay thuộc xã Liên Khê, từ 07/2025 thuộc phường Lưu Kiếm, thành phố Hải Phòng, nơi có liên tiếp 20 ngọn núi và có thành cũ, gọi là thành nhà Mạc. Tục truyền nhà Mạc từng xây dựng Đấu Đong quân ở đây, núi này đối diện với núi Đồn (tên Nôm là Đụn) bên tả ngạn sông. Hay con sông từ ngã ba sông Mỹ (sau là thượng nguồn sông Giá) kéo xuống phía hạ lưu gọi là sông Thành Triền, theo tên Nôm là Thành Dền (từ năm 1890 là Đá Bạc). Còn làng Thanh Lãng, tên Nôm là Ráng, xưa thuộc tổng Phù Lưu, huyện Thủy Đường, thời nay thuộc xã Quảng Thanh huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Lê Ích Mộc thành phố Hải Phòng là quê của Trạng nguyên Lê Ích Mộc đỗ Đại khoa năm 1502. Theo sách “Đồng Khánh địa dư chí”, thì đền Nghè làng này được xếp hạng di tích thời Nguyễn, ngang với danh hiệu di tích cấp quốc gia thời nay)

          22-

Trăm cái tội

Không bằng lỗ lội làng Quỳ

       (Làng Quỳ Khê, gọi tắt là Quỳ, xưa thuộc tổng Trúc Động, huyện Thủy Đường, thời cách mạng thuộc xã Liên Khê huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Lưu Kiếm thành phố Hải Phòng. Vùng đất này từ xa xưa đã là nơi sông ngòi kênh rạch chằng chịt và đất đai làng Quỳ còn nằm rải rác bên tả ngạn sông Đá Bạc thời nay. Khu vực này trước đây từng là căn cứ chống quân xâm lược phương Bắc cũng như chống Pháp về sau)

          23-

Đất Yên Khánh

Thánh làng Quỳ

       (Câu ca này có vào sau này, khi phân chia ranh giới giữa huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng) và huyện Đông Triều (Hải Dương). Còn từ năm 1891 trở về trước thì đảo có hang Son vẫn thuộc về thực địa làng Quỳ Khê, tổng Trúc Động huyện Thủy Đường. Trung tâm làng Quỳ Khê nằm ở gần bên hữu ngạn sông Bạch Đằng cổ và phía Tây Bắc của tổng Trúc Động. Vì thực địa làng Quỳ Khê là đảo có hang Son. Hay trang 476 sách “Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí” xuất bản năm Gia Long thứ 4 (1805) có ghi: “Đi ngược lên thì một nhánh đến Mỹ Giang, tức sông Mỹ (từ năm 1890 là sông Giá), một nhánh đến sông Son, cả hai thuộc giang phận huyện Thủy Đường”. Tới trước cách mạng tháng tám (1945) phân chia lại ranh giới, thì hang Son mới thuộc làng Yên Khánh, tổng Yên Khánh, huyện Đông Triều, thời nay thuộc xã Hồng Thái Tây, thị xã Đông Triều, nay thuộc phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Để minh chứng cho hai bên sông Đá Bạch ngày nay có nhiều sông ngòi, kênh rạch ở sâu trong nội địa thời nay, thì vào năm 1886 Tướng quân Đốc Tít chỉ huy nghĩa quân bắn cháy hai tàu chiến Pháp tại cửa hang Son và vào ngày 10 tháng 07 năm 1886 đã tấn công đồn Đông Triều. Rồi vào thời Pháp thuộc (1890 - 1945), người Pháp đã nắn chỉnh lại dòng Đá Bạc (Bạch) và nhiều thùng vũng ao hồ, sông ngòi kênh rạch dần dần được san lấp, thì bên tả ngạn sông do huyện Đông Triều quản lý, còn bên hữu ngạn sông do huyện Thủy Nguyên quản lý. Vì vậy tại khu vực này tới nay vẫn tồn tại câu ca trên. Thời nay một số sách đã xuất bản ở Hải Phòng ghi chưa chính xác nguyên nhân câu ca trên)

        24-

Ai về thăm xóm Lò Nồi

Mà xem cái bát sáng ngời nước men

       (Giáp Lò Nồi, xưa thuộc làng Dưỡng Động, tên Nôm là Dãng, tổng Dưỡng Động, nằm bên hữu ngạn sông Bạch Đằng cổ và nhánh sông Bạch Đằng cổ mang tên Hà Thần, tức sông Thần nối từ sông Mỹ (từ 1890 là Giá) sang sông Bạch Đằng cổ (từ 1890 là Đá Bạc), thời cách mạng thuộc xã Minh Tân huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng thành phố Hải Phòng)      

          25-

Đường đi núi Vệ loanh quanh

Em vào Lê Lợi cho anh cùng vào

Chỉ giùm đâu núi Triệu Cao

Đường ven Bến Ngổ dạt dào câu ca

Ngước nhìn ngọn núi Suối Bà

Đường ra Mom Hổ, Con Gà, Bồ Cu

Lò vôi khói tỏa mịt mù

Hà Sơn đá xẻ lu bù đường cưa

Trở về theo nẻo dốc xưa

Niêu Sơn, Đồng Cả nên thơ núi Hàn

Núi Vụng nối với Áng Chàm

Diệu huyền Hang Ốc xênh xang Đầm Tòa

Hom Dâu, Đồng Giá thiết tha

Ngà Voi, núi Nứa, núi Da, núi Hồ

Trường làng ôm ấp mộng mơ

Rừng cây Chùa Bến đứng chờ gió lay

Còn một núi nữa đắm say

Bớp Sơn chờ sẵn khách hay muốn vào…

       (Các chữ nghiêng là tên núi của làng Dưỡng Động, tên Nôm là Dãng, xưa thuộc tổng Dưỡng Động, huyện Thủy Đường, thời cách mạng thuộc xã Minh Tân huyện Thủy Nguyên, từ 07/2025 thuộc phường Bạch Đằng thành phố Hải Phòng)

.          

NGỌC TÔ (Sưu tầm)

(Còn nữa)